1
Tự ngôn của nhà xuất bản [1]
Thiên phóng sự này, ông Triều Đẩu viết từ năm 1955, trong lúc các tiệm hút được thiết lập công khai tại Sài Gòn – Chợ Lớn, dưới biển hiệu Công Yên... và ông đã cho đăng trên tờ nhật báo Hoà Bình dưới ẩn danh Tử Long, mục “Đô thành nghiện hút”. Mục đích cổ võ một phong trào rầm rộ bài trừ cái nghiệp thứ 3 trong bốn nghiệp tứ đổ tường, lúc ấy đang hoành hành kinh khủng.
Nếu giờ đây, ước mong của ông đã được thực hiện một cách mỹ mãn – đạo dụ ngày 27-9-1955 phạt tù người hút, chủ tiệm cũng như bất cứ tư gia nào oa trữ một dụng cụ bàn đèn – tác giả đã chỉ mừng thầm làm trọn một phần nào nhiệm vụ kẻ cầm bút.
Nay chúng tôi cho in lại thành sách thiên phóng sự này không ngoài mục đích cho nó một “đời sống” vì giá trị văn phóng sự cũng có – giá trị do lối hành văn đặc biệt của ông – mà vì cả giá trị tài liệu đối với bạn nào, sau đây muốn khảo cứu về cuộc tiến hoá của dân tộc.
Vả lại, chẳng lẽ bỗng không mà tác phẩm đã được đổi tên, từ Đô thành nghiện hút đến Những thiên đường lỡ. Duyên do có thể chỉ là lẽ túc duyên mà người trong nghiệp hay ngoài nghiệp cảm thấy rằng cần thiết. Bởi lẽ không phân biệt già hay trẻ, trai hay gái, ai đã biết hưởng thú đi mây về gió cũng đều được người đời suy tôn, lên bậc những tiên ông. Mà tiên ông với thiên đường đều là những danh từ được nêu lên do nguyên tắc hội ý. Tiên ông là người mà thiên đường phải là cảnh. Nếu giờ đây sau những cuộc bố ráp bằng súng cài lưỡi lê bầy rờ-sẹc dữ tợn phàm phu, các tiên ông đã phải tán loạn, lạc lõng, còn run bần bật thì ôi thôi! Quả đã lỡ rồi những thiên đường trần gian...
Sài Gòn, Ngày 5 tháng 11 năm 1955
Nhà xuất bản
Tựa
Chúng ta đều đã biết Triều Đẩu. Thời gian lại xác nhận thêm giá trị Triều Đẩu. Cái cá tính văn chương của Triều Đẩu đã rõ rệt và cái “lối Triều Đẩu” cũng đã gây nhiều ảnh hưởng.
Viết “lối Triều Đẩu” là viết với những hí ngôn, lộng ngữ, những lời sống sượng; viết “lối Triều Đẩu” là khinh đời nhưng không cay cú, giễu cợt nhưng không mỉa mai, chua chát; viết “lối Triều Đẩu”, đến tận cùng, thì là viết với những tiếng cười, cười hềnh hệch, cười hì hì, cười ha ha, cười hở hả, vì tận cùng Triều Đẩu tâm tình dễ dãi.
Triều Đẩu nhận thấy tất cả cuộc đời nó như thế thì “quấy” một cái mà chơi. Cái tiềm ẩn bên trong đã hình ra ngoài cho nên ai đã đọc văn Triều Đẩu lại được ngắm Triều Đẩu bằng xương bằng thịt sẽ thấy hai Triều Đẩu tinh thần và vật chất chỉ là một. Thịt Triều Đẩu phê pha để mở rộng thêm cái cười phân phở, xoá nhoà cả cái tuổi năm mươi. Phải, không ai ngờ nổi rằng Triều Đẩu đã đến cái tuổi “tri thiên mệnh” của thánh hiền.
Tất cả Triều Đẩu đã là Triều Đẩu viết truyện ngắn, quen biết lắm rồi. Nhưng từ Trên vỉa hè Hà Nội, tác phẩm đầu tiên của Triều Đẩu, người ta đã cảm thấy Triều Đẩu sẽ có một đường đi nữa, cũng thích hợp với Triều Đẩu mà có lẽ thích hợp hơn: con đường “phóng sự”. Với những truyện ngắn, Triều Đẩu đã trừu tượng hoá cuộc đời để cười, nhưng có lẽ cái cá tính Triều Đẩu sẽ nảy nở mạnh mẽ hơn, sẽ bung ra tươi tốt hơn nếu Triều Đẩu “quấy” với cái trò chơi mới là rượt đuổi cuộc đời biến ảo để bắt sống lấy nó.
“Anh viết phóng sự đi chứ”, nhiều lần tôi đã thôi thúc Triều Đẩu và câu trả lời của Triều Đẩu bao giờ cũng là:
“Để rồi xem… Cái đó còn phải có hoàn cảnh”.
Tuy nói thế, nhưng thâm tâm tôi e rằng đã xui dại Triều Đẩu chăng? Hỡi ơi! Trọn đời người, cái thời gian ăn ngủ thật dài, nhưng cái thời gian sáng tác nó quá ngắn ngủi, quá mong manh. Cùng một câu văn giá phút trước viết được, hay biết chừng nào, để nhỡ đến phút sau chữ bôi vào giấy trắng đã chẳng phải là câu mình định viết nữa rồi. Ai đã từng cầm bút ắt hẳn đầu phải có một tác phẩm đẹp vô ngần mà thời gian đã nhớ hoài để không bao giờ hoàn thành được cả.
Đằng này, tôi lại giục Triều Đẩu làm một công việc mà tôi ước lượng chỉ lệch tay một chút là thôi rồi cả những đêm cầm bút rỏ máu để ghi lời. Bởi vì, nghề phóng sự là nghề bạc nhất. Nó cũng là một nghệ thuật đấy, nhưng đồng bóng như nghệ thuật trang trí hay nghệ thuật đóng hề. Hoà điệu đồ đạc một căn phòng cho đẹp để nuôi khoái cảm cho mắt người ta, quặn lòng tạo nên một cử chỉ để đổ tiếng cười vào lồng ngực khán giả, những nghệ thuật ấy không hẹn có giờ sau. Làm phóng sự cũng thế.
Phóng sự là thuộc vào thời gian. Mất thời gian tính, mọi thiên phóng sự đều như những ngọn đèn phải lụn tắt vì thiếu dưỡng khí. Phóng sự phải là những cây pháo bông làm loá mắt người đọc vì người ta chỉ đọc phóng sự trong khoảnh khắc, những khi người ta ăn no cần thêm một chất tiêu hoá, hay khi buồn ngủ cần những cái vuốt cho thần kinh giãn ra. Vì thế, phóng sự cần cho báo hàng ngày để điểm hoa văn nghệ vào những tin tức “giật gân”. Và tờ báo đọc xong hôm nay, ngày mai sẽ được dùng vào những công việc hữu ích khác cùng với cả mọi thiên phóng sự “ly kỳ”. Nhưng cái bạc của nghề phóng sự là thế đấy.
Nhưng Triều Đẩu đã viết phóng sự. Ngày ấy là Sài Gòn 1955. Những thiên đường lỡ dưới nhan đề Phóng sự đô thành nghiện hút được đăng tải trên nhật báo Hoà Bình với bút hiệu Tử Long. Triều Đẩu viết, mỗi sáng đều đặn năm trang giấy, viết tay, để giao nhà báo, để đủ ba mươi lần đăng sẽ lĩnh về một tập giấy khác, có lẽ cấp thiết hơn là mọi tờ giấy nọ làm nhèm những dòng dập xoá. Khi tôi rõ Tử Long là Triều Đẩu, thì Triều Đẩu hềnh hệch cười bảo tôi: “Không nói cho anh biết vì viết kiếm tiền”. Thêm cái “xài” cho kẻ di cư nhưng cũng thêm một tác phẩm cho Triều Đẩu mà chính Triều Đẩu không ngờ.
Triều Đẩu phóng sự đã bắt cái mong manh phải đứng lại, đã đem cái trường cửu in hằn trên giấy. Sở dĩ mọi thiên phóng sự thường không có ngày mai là vì người ta chỉ mải đuổi theo cái bác tạp của cuộc đời. Triều Đẩu viết truyện ngắn đã nắm bàn tay của Triều Đẩu viết phóng sự đòi phải phân biệt ra cái đơn thuần giữa cái bác tạp để tạo nên những điển hình. Mọi nhân vật trong Những thiên đường lỡ đều có giá trị tiêu biểu, đánh dấu không những chỉ một thời đại mà một xã hội.
Chúng ta hãy cười đi vì Triều Đẩu cười, vì Triều Đẩu cố nhịn cười, vì Triều Đẩu nguây nguẩy chê chán nhân sinh… Triều Đẩu giữ Những thiên đường lỡ đóng vai một anh hề béo mập hí hí đốt một cây pháo bông cho xáo trộn lòng chúng ta với mầu, với sắc, với thanh âm.
Những thiên đường lỡ của những ai? Những ai tính hụt cuộc đời thành Những thiên đường lỡ? Những ai chưa biết có Những thiên đường lỡ? Hãy đọc!
Để kỷ niệm những ngày ở Xóm Oẹc
Sài Gòn, ngày 7–6–1957
Bùi Xuân Uyên
Mấy lời nói đầu
Người lạ, dầu là người Việt Nam, khi mới đặt chân trên đất Sài Gòn đều ngạc nhiên về 4 hình thức cổ điển của tứ đổ tường được phô bầy công khai và đồ sộ. Cái “sự” mà những hình thức đó được phô bầy công khai và đồ sộ tất nhiên phải do những sự nâng đỡ, nếu chưa hẳn là cho phép của những lực lượng bí mật. Nếu không thì chẳng cần pháp luật cấm đoán, tính e thẹn thiên bẩm của con người cũng tự cấm đoán.
Ở đây bạc, rượu, gái cứ tha hồ lung lạc con người, khiến cho khách lạ tới đây – dẫu là chính người Việt Nam – đều phải tự hỏi còn đâu là thuần phong mỹ tục và tìm đâu thấy những sách vở luân lý thường thức, những lời răn đời của những bậc thánh hiền! Thú tính con người được thả lỏng dây cương tha hồ phô bầy cả mặt trái công khai và đồ sộ, giữa mặt thành phố lớn rộng đầy ánh sáng, đầy vẻ đẹp vẫn được mệnh danh là hòn ngọc Viễn Đông. Đánh bạc, uống rượu, chơi điếm, hút thuốc phiện, ở bất cứ đâu cũng như thuộc bất cứ thời đại nào, đều tìm thấy đồ đệ ở con người cổ điển tức là con người của đám đông chứ không phải con người triết lý gàn dở của số ít. Những đồ đệ đó ở đây đã được tha thứ và khuyến khích, thúc giục và nâng đỡ.
Đó là một sự lạ, nếu ta chưa tìm hiểu, song rất có lý nếu ta đã hiểu rồi. Có gì đâu, chỉ vì sự thật bao giờ cũng giản dị, vẫn giản dị.
Và cũng chỉ vì trước khi vào đây, tôi đã gặp anh bạn Ph. nhà dàn cảnh điện ảnh rất quen thuộc của quốc dân – Anh Ph. đã cười lớn, khi tôi ngỏ cùng anh ý định và chương trình của tôi, sau đây nếu có phải di cư “dô” đất Sài Gòn:
“Tôi sẽ suốt ngày đọc sách. Loạn thế độc thư, anh ạ”.
“Thế thì, anh ơi, anh chưa biết thế nào là Sài Gòn rồi. Vì Sài Gòn hiện nay là đất của những chính khách chứ không phải là đất để dụng văn còn nói chi để đọc sách nữa. Sống hằng ngày ở cái nơi mà mọi người đều xô nhau làm chính trị, hầu như làm chính trị là một lẽ sống thì ngoài đường của Sài Gòn cũng sẽ phụ họa, và dù muốn hay không họ cũng sẽ bị lôi cuốn vào cái đà chính trị. Và đồng thời làm tứ đổ tường, tức là làm chính trị.”
Câu chuyện trên đây đã được trao đổi giữa làn khói thuốc lá và xung quanh ly cà phê thường lệ, trên vỉa hè Hà Nội cổ kính, trong lúc đồng bào Bắc Việt đang ồ ạt di cư vào Nam, Ph. đã nêu câu chuyện trên đây bằng một giọng lịch lãm và những cử động lịch duyệt. Nghĩa là đượm vẻ thú vị của câu này trong Kinh Thánh: Ta parole est la vérité. Lời của người là tất cả sự thật.
Tuy vậy lúc ấy tôi vẫn còn nghi ngờ sự thật đó. Anh Ph. đã bắt tay tôi từ giã, mặc tôi với sự nghi ngờ rất dễ hiểu của tôi, để đi ra khách sạn “Con Gà Vàng” đến người vợ xinh đẹp của anh lúc ấy coi “két” cho khách sạn.
Cho mãi tới ngày nay đích thân sống trên đất Sài Gòn để thực nghiệm sự thật trong lời nói của anh bạn Ph. tôi mới biết đánh bạc, chơi điếm, hút thuốc phiện, cũng đều là làm… chánh trị.
Và không quá bi quan như mọi triết nhân, như mọi nhà tư tưởng xã hội, tôi đã cười lớn – mặc dầu chỉ là cười vọng – để hưởng ứng tiếng cười ngày nào của anh bạn Ph. trên vỉa hè Hà Nội, xung quanh ly cà phê ngon, và giữa làn khói thuốc lá vàng hoặc đen.
Và giờ đây, tôi đã viết và bắt đầu cho đăng thiên phóng sự trường thiên: Đô thành nghiện hút, tức là 1 trong tứ đổ tường. Lý do cũng dễ hiểu. Bạn đọc chắc còn nhớ hôm ấy bạn đã vui sướng và đầy tin tưởng khi thấy lệnh từ trung ương bắt đóng cửa tất cả các sòng bạc kể từ 16-1-55, ngay trước Tết. Các bạn chắc tự đặt cho mình câu hỏi sau đây, lẽ dĩ nhiên là câu trả lời không thuộc thẩm quyền của bạn:
“Thế bao giờ mới đến lượt các tiệm hút, vườn lài gái điếm cùng các tửu điểm bán rượu mạnh đầu độc?”
Cũng như các bạn, tôi đã đặt hết tin tưởng vào thiện chí của nhà hữu trách trong việc bài trừ những vết lở kinh niên trên đây của xứ sở tức là cái phần đất còn lại sau khi đất nước bị chia hai.
Và thể theo nguyên tắc bất di bất dịch, biết phòng ngừa và trừ bỏ, tôi đã muốn bạn đọc biết cái họa “yên” đổ tường mặc dầu hành động như vậy có thể bị thiên hạ cho rằng… phản chánh trị.
Sài Gòn 1954
Cuộc trích Morphine mỗi buổi sáng giữa thanh thiên bạch nhật
Buổi sáng, trong một cái quán lợp tôn trên vỉa hè đường Lefèbre. Chủ quán là một mụ đàn bà nạ dòng chột mắt. Quán bán đồ giải khát la-de và limô-nát như mọi quán giải khát khác. Chỉ khác một điều là khách hàng ngồi ngả nghiêng trên những chiếc ghế đẩu xung quanh lại không cần giải khát. Nếu có phải uống thì họ chỉ uống ly cà phê không hoặc cà phê sữa.
Song buổi sáng nào họ cũng tập trung nơi đây, cuộc tập trung vừa có tính công khai, vừa công cộng và mặc dầu ẩn dưới mái tôn nhỏ bé nó vẫn như là ở ngay giữa trời. Có thể rằng đây là một cái chợ nhưng là một chợ chuyên môn để tiêu thụ một món hàng độc nhất mà đoàn người tới bán mua tiêu thụ món hàng đó như tìm một lẽ sống cần thiết hơn cả cơm trắng, hơn cả khí trời.
Cứ nhìn những thân hình xanh xao, gầy còm đó, chúng ta có thể yên trí rằng họ không cần cơm gạo và khí trời. Ở họ không còn chút gì gọi là sinh khí, cái khí vượng của sự sống nó làm cho da mặt hồng hào, đôi mắt sáng và ý chí sống mạnh toát ra từ vẻ người, từ hình sắc, vô hình nhưng rõ rệt, nhẹ nhàng nhưng mãnh liệt. Trái lại, ở những gương mặt vội vàng kia, ở những hình hài xác ve, và gầy đét như cái que kia, đôi mắt hình như đã hết vẻ tinh anh, sinh lực hình như đã cạn, thể chất như bị ướp bằng chất formol để trở nên những xác ướp, những momie xứ Ai Cập.
Tinh thần vật vờ như ngọn đèn trước gió đã trở nên mong manh, xa vắng như chất éther.
Đọc đến đây, chắc có bạn cho rằng tôi đang tả một bầy người ở thế giới bên kia, hay ít ra cũng ở một thế giới trung gian giữa thế giới người sống và thế giới người chết.
Nhưng không, trái lại, bạn hãy trông đây, một anh đang ngự trên ghế đẩu, bàn tay trái đặt trên đùi, để lộ những đường ve (veine) – mạch máu – hằn lên rõ rệt.
Một ống trích (tiêm), kim cắm chếch vào một mạch máu, trong khi tay kia – tay phải - ấn piston đẩy một chất trắng trắng lượng số chừng 4cc.
Mạch máu căng lên để tiết vào ống trích vẫn hoà với chất nước trắng đó, những tia máu đỏ tím bầm mầu bồ quân – vẫn được mệnh danh theo khoa học là màu đen. Con người xanh xao gầy yếu bỗng trở nên rất “anh chị”.
Một vẻ hào hùng bao phủ cả thân hình ốm o. Tay phải anh vẫn đẩy piston, làn nước trắng từ từ đi vào mạch máu để hoà thấm vào các tế bào. Nhìn anh chàng trích lấy đó, chúng ta có thể liên tưởng đến những bực phong lưu mã thượng, trong những tiểu thuyết, trong những câu chuyện truyền tụng, chán ngán cuộc đời sau khi đã tận hưởng mọi sự. Giờ đây người khác phong lưu tự trích chất độc vào người để tự giải thoát bằng cách chết từ từ, êm dịu, nhẹ nhàng và lâng lâng trong một giấc ngủ triền miên không mộng mị, không trằn trọc. Song ở đây, ở trước mặt chúng ta giờ đây – giữa một buổi sáng mát dịu mà xung quanh, mọi ngành họat động đang bắt đầu giữa đô thành - ở trước mặt chúng ta đây là một anh chàng không phải chán chường mà rất ham sống không phải muốn thoát ly vĩnh viễn mà cố bám lấy cuộc đời dẫu rằng chì trong mấy giờ đồng hồ.
Vì đây – và giờ đã đến ta phải gọi nó bằng đích tên nó – vì đây là chất morphine, chất ma tuý, vị thuốc quốc tế để kích thích cân não và đem lại luồng khoái cảm mê ly. Người đã như mọc thêm cánh bay phiêu diêu trong xứ mộng. Tâm hồn đã như đắm say trong một thế giới huyền ảo, thực thực hư hư. Và cả thể chất như được thấm nhuần một khoái cảm như nặng như nhẹ, như xa như gần, kỳ thú và tràn ngập.
Tất cả cuộc thay đổi thần tiên, tất cả cuộc thoát xác kỳ lạ dó đã được thực hiện trong mấy giờ đồng hồ, nhiều ít tuỳ theo số lượng morphine tiêm vào mạch máu. Ngoài thời gian đó chất ma tuý sẽ hết hiệu lực, và con người sẽ lại trở lại nguyên hình ốm o, yếu lả. Để rồi, con người tội nghiệp đó, muốn sống lại phải tìm đến đây, mua thuốc ma tuý tiêm vào người! Theo nguyên lý “quen thuốc” của tế bào của cơ thể, người quen trích morphine, lần sau, muốn được từng ấy hiệu lực ma tuý, phải tăng thêm chất morphine.
Và cứ theo cái đà cấp số hoàn toàn thuộc sinh lý đó, con người sẽ theo đuổi một số lượng morphine kinh khủng về cc (centicube). Cánh tay hay bàn tay sẽ bị trích nát, những vết trích sẽ chồng chất lên nhau thành những vết thương không bao giờ được lành lặn. Bắp tay, vì vậy, sẽ sưng vù lên rất đáng thương.
Rồi thì theo đuổi cuộc sống qua chất morphine, con người cứ đi gần đến cái chết. Đã có kẻ một buổi sáng, bất thình lình không cần hấp hối, lặng lẽ nằm vật chết trên vỉa hè Lefèbre này.
Người “anh chị” trên ghế đẩu vẫn tay xoè, tay đẩy ống trích, im lặng và thong thả. Chất morphine vẫn từ từ sèo sèo đi vào mạch máu anh. Thời gian hầu như ngừng trôi. Không gian cũng cố im lặng. Trong khi ấy trên những ghế đẩu xung quanh một anh nữa đã sửa soạn ống trích để trích dùm anh bạn bên cạnh. Ống trích đã giơ cao trước mặt, kim trích trọc vào hẳn lòng ống (ampoule) morphine, lật ngược, chất nước trắng đang được rút vào ống trích. Mỗi ampoule là 2cc.
Người này dùng 2 ampoules một lúc tức là sẽ trích cho bạn 4cc. Anh bạn sắp được trích đã ngồi chờ bên cạnh, người rũ ra như mất hồn. Cánh tay anh khẳng kheo đặt sẵn trên bàn. Những vết trích cũ hãy còn tím bầm. Ống trích và kim trích sẽ lần lượt dùng để trích cho tất cả bẩy người xung quanh đó mà không cần phải đun sôi để trừ vi trùng theo lẽ thông thường của vệ sinh và khoa học.
Tôi ngạc nhiên vì sự trạng cẩu thả thiếu sót và phản khoa học đó. Nên đã hỏi anh ngồi bên cạnh:
“ Ồ! Thế không sợ ắp-se (abcès) ư? ”
Thì anh đã cười, để trơ hàm răng khói ám vàng khè giữa hai làn môi thâm:
“ Anh ơi! Không bao giờ có ắp-se cả ”.
Tôi lại càng ngạc nhiên, hỏi thêm:
“Tại sao vậy?”
Cặp môi thâm thẫn thờ buông:
“Tại sao? Tại chất morphine làm mê ly người ta và cả vi trùng. Vi trùng đã say rồi thì còn sinh sự, làm “ắp-se” gì nữa”.
Tôi tần ngần suy nghĩ và cho rằng dẫu sau đây cũng là một hiện tượng của khoa học mà phải đến đây – giữa cái thế giới của người morphine – mới khám phá được.
Tôi ngước mắt trông sang phía trong. Ngồi ngay cạnh mụ chủ quán là một người “đầm” chừng 30 tuổi mà mái tóc ngắn đã hoa dâm kiểu muối hạt tiên. Cô bận áo mầu đỏ nhưng không còn nếp là ủi nên nhầu nhầu, nhuôm nhuôm không xứng với làn da trắng và vẻ dễ coi của khuôn mặt. Vì rằng nhác trông con người cô, ta có thể đoán rằng đã có một thời cô đẹp lắm và nếu ở cô mùa xuân đã sớm tàn lụi cũng chỉ vì cô đã sớm dùng chất morphine. Cho nên trên khuôn mặt “đầm” khả ái, đã phảng phất một vẻ chán chường, và hai làn môi xinh xinh đã nhuốm mầu đen, mầu độc quyền của nha phiến. Cô đã nhờ trích chừng 6 cc morphine. Nên đã trở nên tỉnh táo. Nhìn cô, tôi mỉm cười. Cô cũng mỉm cười trả lại.
Bất giác, theo bản năng của người nghệ sĩ, tôi đã từ thâm tâm choàng lên đầu cô làn hào quang dành cho tiên nữ, bị đầy xuống phàm trần vì một lỗi lầm nào khác. Và giờ đây người tiên nữ, da trắng tóc vàng đã như ai tìm chút sinh lực tàn lụi trong cái thế giới của morphine. Tội nghiệp! Con người thế ấy thế âu thế này! Anh chàng nghệ sĩ là tôi liền lấy thuốc lá hút và rất thành tâm đã đưa mời nàng. Nàng mỉm cười nhìn tôi cảm ơn, đỡ điếu thuốc lá và bật diêm châm bằng những cử động của con người quen bừa bãi nhưng cũng không kém vẻ nên thơ. Và nàng đã đứng lên gật đầu chào từ giã. Tôi nhìn theo cái thân hình không đến nổi gầy yếu mà đi lắc lư có khi lệch hẳn về một phía. Chiếc áo mầu đỏ vì vậy cũng lệch lạc, thất thểu, rất đáng ái ngại. Tự nhiên tôi muốn chạy theo nàng để làm một người bạn đồng hành. Vì trong thâm tâm tôi nhận thấy cuộc đời nàng có thể là một kho truyện kỳ lạ và con người nàng có thể là hiện thân của thứ gì bí mật. Hai lần tôi đã thoắt đứng lên, song hai lần bất giác hai tay tôi đã sờ đến cái “bốp” – ví tiền.
Rất thất vọng khi nhận thấy túi mình chỉ có mấy chục bạc và như vậy không đủ tư cách để đi đích thân khám phá những sự bí mật thú vị kia. Ở đất Sài Gòn này ai cũng rõ muốn hành động gì dù lớn dù nhỏ đều phải có rất nhiều tiền và một khi túi đã có rất nhiều tiền thì Sài Gòn sẽ lần lượt giao cho mình hết cả bí mật. Thất vọng tôi lại ngồi xuống ghế, giơ tay với ly cà phê loang loãng vô vị để uống cạn một hơi. Tôi đã đứng lên, trả tiền mụ chủ quán.
Tôi vẫn băn khoăn, thắc mắc vì sự bí mật sống kia. Cho nên tuy không thể đích thân khám phá nó được, tôi đã phải dùng cách gián tiếp nghĩa là hỏi truyện anh bạn ngồi cạnh lúc ấy. Lẽ dĩ nhiên là ở chỗ khác và trong thời gian khác. Và dưới đây là câu chuyện của cô nàng. Anh bạn đã kể lại qua giọng khè khè đượm khói sạm và ký ức rạn vỡ của con người nghiện oặt. Tôi đã xếp đặt lại cho có mạch lạc, điểm đây đó một chút thơ. Và anh bạn đã xuýt xoa nói bên tai tôi:
“Trời ơi! Ngày xưa nàng đẹp lắm, đẹp lộng lẫy đẹp có tiếng ở Đô Thành này. Nàng lấy một chủ đồn điền cao su người Pháp và sống cùng chồng ở ngay đồn điền một cuộc đời vương giả, êm đềm trướng rủ màn che. Lẽ dĩ nhiên, khi ấy nàng không nghiện hút”.
Anh bạn vẫn xuýt xoa:
“Trời! Nàng đẹp quá chừng. Đấy ông xem, cho đến bây giờ, bị thuốc phiện tàn phá và morphine rầy vò mà trông nàng vẫn còn phong vận lắm đấy chứ. Hai cánh tay còn trắng trẻo và mập mạp”. (Tôi hình dung những vết thương trích sưng lên trên cánh tay ban sáng nay mà chạnh lòng thương vay – mặc dù chỉ là tính hay thương vay tiếc mướn, rất hão huyền của con người nghệ sĩ). Anh bạn đã nói tiếp:
“Gương mặt nàng còn đẹp đấy chứ. Phải biết ngày xưa thì nàng đẹp biết chừng nào. Vậy thì bà chủ đồn điền cao su của chúng ta đã có hai con cùng chồng”.
Đó là một kiểu mẫu gia đình tư bản Pháp tại Việt Nam. Người chồng mập mạp, mặt lúc nào cũng đỏ vì thừa máu, ở trong nhà thì bận pyjama kẻ dòng dọc, chiều chiều bận áo chim cò ra ngồi tiệm cà phê hút xì gà và đọc nhật trình. Mỗi khi có việc kinh doanh lên Sài Gòn tay ông sách cặp sa-ma-rô-canh, ngự xe hơi kiểu tối tân, dùng cơm tây trong những tiệm sang trọng nhất và lẽ dĩ nhiên là bao giờ cũng sâm banh với xì gà thượng hảo.
Một họa sĩ Việt Nam đã tượng trưng hoá ông thực dân Pháp (dầu thuộc giới quan cai trị, chủ xí nghiệp hay chủ đồn điền) bằng hình vẽ một ông Pháp to lớn mặt đỏ ăn bận chỉnh tề, vét tông, ca vát, bệ vệ ngồi bên cạnh ly sâm banh, miệng ngậm xì gà ngất nghểu. Trong thời gian ấy, tại đồn điền cao su dưới hành lang hoa lá rủ mành một toà nhà kiến trúc tối tân, bà “đầm” đang lơ đãng ngả mình trên chiếc rô-kanh-xe, đọc một truyện trinh thám hoặc diễm tình.
Từ những căn nhà phụ (dépendances) bọn gia nhân, bồi bếp, tấp nập làm việc nấu nướng, giặt ủi, cho chim gà ngan ngỗng ăn.
Bỗng từ ngoài cổng một hồi còi xe hơi inh ỏi xen lẫn với tiếng nổ ầm ầm của động cơ tiếp theo là một chiếc xe hơi mới tinh kiểu Hoa kỳ từ từ đậu trong sân. Xe rú máy rồi tắt hẳn. Cánh xe mở, người tài xế ăn vận kiểu riêng nghề nghiệp bước ra để lại chiếc xe không và tiến nhanh từng bậc đá hoa lên phía hành lang, nơi “bà đầm” đang nằm thiêm thiếp giấc, cuốn sách mở úp trên lồng ngực đồ sộ, nửa hở nửa kín.
Tiếng giầy của anh tài nện cồm cộp đã vô tình đánh thức “bà đầm”, song trái với sự chờ đợi bị quở, anh tài đã được bà vui vẻ hỏi han uý lạo:
“Thế nào? Đi đường vô sự chứ?”
Anh tài xun xoe đáp:
“Thưa vâng! Cô Zan-nét (Jeanenette) khóc và kể nhớ mama (mẹ)”.
Bà “đầm” cười sung sướng và ra hiệu cho anh tài rút lui. Anh vừa đưa cô Zan-nét lên Dalat vì hôm ấy là ngày khai trường Sainte-Marie.
Tới đây, chắc bạn đọc đã hình dung một cách đầy đủ nền hạnh phúc vàng son tràn ngập của cô “đầm”.
Nhưng, bất thình lình có phong trào tranh đấu võ trang chống Pháp, chống thực dân.
Ông chủ điền trong một cuộn kinh lý trong đồn điền đã bị mấy tay khủng bố nã súng bắn chết.
Mất ông chủ gia đình giầu có này tức là mất tất cả. Người đàn bà không phải sanh ra để thay thế được nên trong ít lâu người vợ đầm phải rút lui cùng với đứa con về Sài Gòn sống với cái gia tài kếch sù, cỡ tư bản Pháp.
Về Sài Gòn, nàng còn sống cuộc đời vương giả trong mấy năm. Đứa con gái vẫn theo học trường đầm. Nhưng rồi thì theo định luật “Toạ thực sơn băng”, “ngồi ăn núi lở”, cái vốn kếch sù của nàng sau mấy năm, phung phí, không sinh lợi, đã tiêu tán hết. Vả lại, vẫn quen sống ỷ lại không một nghề trong tay, lại thêm cái “nhân đức” hoang dã ám hại, nàng đã trở nên túng thiếu, nghèo nàn như ai.
Và một sáng mai sờ đến ví tiền không còn một đồng một chữ nào, nàng buồn rầu bảo con thôi không đi học nữa, và riêng nàng, nàng phải dấn thân làm cái nghề không cần phải vốn cũng phát đạt, hoặc nếu có phải vốn thì vốn đó nàng đã có tự nhiên. Vậy cần gì phải nói úp mở nữa, có thể nói trắng rằng nàng đã làm nghề mại dâm.
Làm nghề này, ở cái đất ăn chơi vật chất ít đếm xỉa đến phong hoá, nàng đã có thừa tiền để sống cuộc đời phong lưu giữa Đô Thành. Song với cái nghề thức đêm, thức hôm bán xác thịt này, thân hình nàng một ngày một tàn, và lẽ dĩ nhiên sắc đẹp cũng một ngày một phai, nàng đã phải dùng đến một chất kích thích dầu trong chốc lát, dầu trong mấy giờ miễn là người ta cứ phải dùng nữa, ấy là chất thuốc phiện.
Mà thuốc phiện, nếu xưa nay có đem lại chút vui thú để quyến rũ con người trụy lạc, có kích thích những tâm hồn và thần xác mỏi mệt, thì thuốc phiện, trong tứ đổ tường, quả đã có sức phá họai ghê gớm, dầu rằng chỉ bằng chất khói.
Người ta thường thấy nàng nằm dài trong một tiệm quen thuộc tại con đường de la Somme [2] . Nàng hút, hút mãi vì số lượng thuốc phiện đối với con người hút chỉ có mỗi ngày mỗi tăng. Hôm nay 2, 3 điếu ngày mai tất nhiên tăng lên 4, 5, để rồi với ngày tháng theo một cái đà cấp số tai hại, ngày nay nàng có thể trong một bữa hút tới hơn 100 điếu! Và như thế mới đủ “đã” – say.
Mắt lim dim, ngủ gà, ngủ vịt, nàng sống hằng ngày trong mộng khi vui khi buồn, để rồi, choàng tỉnh dậy, quăng một hai trăm bạc “puốc boa” cho bồi tiêm. Chiều đến, sau những bữa ăn thất thường biếng nhác, nàng đã phải điểm phấn thoa son sống với ánh đèn điện cái nghề thực thụ, nghề điếm.
“Em ơi! Điểm phấn tô son lại
Hãy phác trên môi một nụ cười”
Hai câu thơ trên đây đã tả tất cả cái tâm trạng chán chường, miễn cưỡng làm việc của cô gái điếm, của tất cả những cô gái điếm, tới một giai đọan nào mà nghề nghiệp cũng như tất cả mọi nghề nghiệp khác chỉ còn là một sự miễn cưỡng chán nản, không đem lại sinh thú nữa. Điểm phấn tô son cũng là sự bất đắc dĩ. Và không muốn cười nữa cũng phải cố mà cười, cái cười nghề nghiệp nó đem lại cơm áo và… hạnh phúc!
Rồi thì trông gương cô gái điếm đó, hỏi có ai trong cái xã hội người này dám vỗ ngực tự cho mình hoàn toàn trong sạch và tâm hồn đã không vương nhiều hay ít chút điếm? Từ anh “mần” chỉ số lượng hơn 100 cho đến anh “bự” với chỉ số lượng hơn 1.000 tất nhiên tới giai đọan nào của cuộc sống nghề nghiệp, anh cũng đã phải miễn cưỡng điểm phấn tô son và miễn cưỡng cười!
Đọc đến đây tất nhiên có nhà “đạo đức” bĩu môi mà rằng:
“Ồ! Thế còn lương tâm nhà nghề?”
“Hừ! Lương tâm nhà nghề, đó là vấn đề rất tương đối, và số lượng lương tâm đong một cách cụ thể theo cc (centicubes) thường tính theo một hàm số ngược chiều (en fonction inverse) với chỉ số lượng!”
Anh “mần” bự - to vị tất đã có số lương tâm nhà nghề nhiều hơn anh “cắc-ké” – bé, và khách làng chơi từng biết đó, ở một cô gái điếm nhỏ bé chúng ta thường thấy có rất nhiều cc (centicubes) lương tâm đã giúp cô biết chiều khách hàng không tham lam về giá cả.
Trái lại ở những “bự” trong nghề chỉ số 500 hay 1.000 ta thường thấy họ nuốt chửng cả một cơ nghiệp của những khách si tình của những “con đen” đã mập mờ bị đánh lận.
Người viết phóng sự sở dĩ đã phải dài dòng về vấn đề “nghề nghiệp” trên đây cũng chỉ có mục đích nêu lên cái chán nản của nghề nghiệp, của bất cứ nghề nghiệp nào tới một giai đọan quá trớn của nghề nghiệp. Mà ở bất cứ nghề nghiệp nào nếu ta cứ đi sâu mãi và theo đuổi như một nghiệp dĩ, tất nhiên ta sẽ từ một giai đọan quá trớn tiến lên thì buồn “thấy mẹ” mà lùi thì nhất định không được nữa, vì tất cả một hệ thống vật chất và tinh thần của cuộc đời, tất cả một tổ chức ăn ngủ tiêu xài đã được đặt lên trên cái nghiệp đó rồi. Nếu phải lùi thì lại là một thứ hạng Ô Giang. Mà trông trước trông sau biết cùng ai mà thốt lên được câu tâm sự bất hủ của Hạng Vũ:
“Ngu Cơ! Ngu Cơ! Về đi thôi?”
Không tiến không lui, người ta trở nên chán nản, bất đắc chí, tha khắp đó đây một thứ “sầu xứ” vẩn vơ, một nỗi buồn mênh mang, mặc dầu người ta chẳng là thi sĩ.
Và để tìm cái quên người ta đâm ra uống rượu, đánh bạc, đi vườn lài và hút thuốc phiện. Và cô gái điếm, không lẽ lại bảo hoàng hơn cả nhà vua bằng cách đi chơi điếm nên cô đã chiếm một trong tứ đổ tường: cô đã hút thuốc phiện.
Một chủ tiệm hút thường là một nhà sành tâm lý đã rõ mối sầu mang mang của cô đầm thất thế nhưng là một gái điếm còn đắc lực, nên đã sửa soạn cho cô một phòng riêng biệt với một “mâm hút” – bàn đèn – riêng biệt, một bồi tiêm riêng biệt.
Đèn đã đốt lên toả ra bốn xung quanh, làm ánh sáng vàng vàng, mung lung. Anh bồi tiêm đã xin phép nằm vào bên cạnh bàn đèn. Tay anh sẽ sàng và thận trọng lấy tiêm quệt lấy trong “ngao” thuốc một thứ nhựa đen sẫm qua chiều sâu, nâu sạm qua chiều mỏng. Ở đầu cái tiêm thuốc đã sèo sèo trên ngọn lửa đèn toả ra một mùi nồng nồng khét khét, thơm thơm đặc biệt của thuốc phiện. Anh nướng thuốc, xoe xoe dầu tiêm để thuốc chín cả tứ phía, tới khi một chất khói trắng toả ra tức là thuốc vừa chín. Và chỉ tới lúc đó thôi, anh mới thôi không nướng nữa, lại quyệt dầu tiêm “ngao” thuốc, lấy thêm ít thuốc, để lại đưa lên nướng trên ngọn đèn như vừa rồi. Cho tới khi một chút khói trắng toả ra; anh lại thôi nướng, lấy ít thuốc nữa đưa lên hơ, để rồi, với những cử động thong thả dịu dàng như vậy, anh đã có một điếu thuốc trung bình, tức là đủ một điếu rồi, anh mới giơ cái “nồi” (cái điện hay cái tẩu) lên ngọn đèn dầu, hơ thuốc và nặn điếu thuốc trên mặt “nồi”, xoe tròn cái tiêm để tạo nên một điếu thuốc dài dài sẵn sàng tra vào “nhĩ” – miệng tẩu.
Từ đây, cử chỉ nướng thuốc, nặn thuốc đã trở nên nhanh nhẹn rộn rịp. Tay tiêm đã như gió táp mưa sa. Vì rằng dưới là lửa đốt, trên là thuốc nướng, anh phải nhanh nhẹn sao cho thuốc không cháy và khéo léo sao cho thuốc không bị nóng quá. Nghệ thuật tiêm thuốc ở đây thực cũng như nghệ thuật nấu cơm.
Cơm phải dẻo, thuốc phải vừa ngon. Và điếu thuốc đã được tra vào miệng nồi (tẩu) anh bồi tiêm rút tiêm ra hơ điếu thuốc một lần nữa trên ngọn đèn, lấy mũi tiêm khơi ngòi qua điếu thuốc chọc vào tận đáy nồi thuốc. Lúc ấy anh mới hạ cả xuống cạnh bóng đèn cái, tiêm để rút nó ra. Điếu thuốc đã hoàn thành, ngòi thuốc đã khơi thanh thoát, anh liền quay đầu ống (cái dọc) lại phía bà đầm lúc ấy nằm ngửa, lưng dán xuống giường, người mỏi mệt, mắt nhắm, hai tay chắp vào nhau đặt trên bụng, y như người chết chưa kịp khâm liệm nhưng được điều may mắn là có người vuốt mắt cho rồi.
Vì thực ra lúc này nàng chưa hút nên nằm mệt lả thì chính thuốc phiện đã vuốt mắt để cho nhắm. Chứ lát nữa đây khi mấy trăm điếu thuốc đã hút rồi thì nàng sẽ ở vào tình trạng tơ mơ, nửa tỉnh nửa thức, nửa sống và lúc ấy và chỉ ấy thôi, thuốc phiện sẽ là con quỷ nhập tràng, con ma nghiệp chướng làm cho nàng ngủ mà mắt cứ mở, lòng trắng trơ ra vì lòng đen đã lộn ngược lên hết. Thực là thảm thương và ghê rợn.
Nàng chưa được hút, nàng mệt đang nằm lả như chết kia. Đầu ống đã dâng quay lộn về phía miệng nàng.
Nhưng nàng không hay vẫn nằm không động tĩnh y như con người chê thuốc hoặc bất cần thuốc. Anh bồi phải lấy tiêm – cái phía đầu to trái với phía mút nhỏ và nhọn - gõ lên ống mấy tiếng cách cách nhỏ bé, sang sảng.
Tự nhiên nàng choàng dậy tỉnh táo y như một tâm hồn lạc lõng chợt nghe tiếng gọi, một linh hồn ma vừa nghe tiếng chuông thỉnh. Mấy tiếng gõ cách cách nhỏ bé, sang sảng. Nàng mở choàng mắt, hai tay vội giơ lên, hấp tấp đỡ lấy ống hút, để hết gân cốt và tâm hồn hít hơi khói sinh lực, mắt nàng lim dim, cổ nàng bật bật. Trên đèn điếu thuốc sèo sèo cháy, thu gọn trong tiếng hít ro ro; ro ro đều đều đắc thắng cổ truyền, đặc biệt như những tiếng kêu từ muôn kiếp của nghiệp chướng! Ro, ro, ro, ro… điếu thuốc đã thu gọn vào trong nồi, trên sức nóng ran của ngọn đèn dầu lạc đốt cháy, như vậy không để lại vết tích 7 đồng bạc (giá một điếu thuốc năm 1954, tại Sài Gòn – Chợ Lớn thuốc không, không nhựa (sái) điếu vừa vặn không bé quá và có thể kéo một hơi khá dài). 7 đồng bạc chỉ là giá một bữa ăn của dân nghèo, một món tiền nhỏ đối với người phong lưu và không có nghĩa lý gì đối với người giàu có.
Nhưng, nhưng – cái nhưng ở đây mới khủng khiếp – 7 đồng bạc, đối với nghiệp thuốc phiện là số tiền; tiền bắt buộc, không có không xong và nhứt định phải có. Vì nó là một khoản tiền sinh tử, gạt ra ngoài, trắng trợn và tàn nhẫn, mọi tình cảm thiêng liêng như tình phụ tử, đẹp đẽ như tình yêu giữa hai bạn lòng. Rồi thì nào phải chỉ có 7 đồng không thôi, phải gấp mấy món tiền đó vì có ai nghiện hút có 1 điếu! Số lượng thuốc hút chỉ mỗi ngày mỗi tăng. Đồng thời số tiền cũng phải tiêu gấp lên; và điều đáng buồn là nếu không có nó người ta cũng phải tìm cho ra, đào cho ra.
Người ta có thể nhịn ăn, nhịn mặc, chứ không bao giờ có thể nhịn hút được, một khi đã mắc nghiện. 7 đồng và 7 đồng, trong cái nhạc điệu một nhịp ro, ro, ro, ro phả vào ánh đèn cổ điển, đã bị đốt ra khói với biết bao nhiều lần 7 đồng, ở một người nghiện, cùng ngày, tháng, năm, ở biết bao nhiêu người nghiện cùng ngày, tháng, năm! Một đời người! Chao ôi! Thực đúng tất cả ngựa, xe, trâu cầy ruộng cấy, nào đồn điền, nào cơ nghiệp đều đã chui tọt vào lọ biến thành khói “yên” của tứ đổ tường.
Ấy là chưa kể, xung quanh 7 đồng bạc, mất đi, còn bao nhiêu thì giờ đáng lẽ dùng vào việc hữu ích, đã tiêu tan, vô ích và vô nghĩa bên cạnh những bàn đèn. Ấy là chưa kể xung quanh 7 đồng bạc mất đi, biết bao nhiêu hình hài có thể đã cường tráng, có thể đã giúp ích cho xã hội, ghé vào một vai gánh nặng sơn hà đã trở nên tiều tuỵ, ốm o, thành phế nhân?
Ro, ro, ro. Tiếng nhạc một nhịp của Sa Tăng vẫn kéo đều đều. Anh bồi tiêm như một nhạc công kỳ quái, sử dụng que tiêm tung hoành và phong phú.
Trong phòng ấm cúng, ánh đèn toả ra xung quanh tạo nên bầu không khí mộng ảo thích hợp. Làn khói dâng lên thơm thơm khen khét, sặc sụa, xa gần. Trên tường, dưới chiếc kính bụi lồng trong chiếc khung gỗ mọt ám khói, róc sơn, ảnh Trưởng Thống Chế nhìn đăm đăm về phía ngoài như suy nghĩ lung về thời cuộc. Song giữa nhung phục, đầy huy chương với gươnm danh dự đeo bên mình, ta ngại rằng Thống Chế bất thình lình… hắt hơi.
Chúng ta sẽ rất ngạc nhiên khi nhận thấy chỉ mấy đợt khói hít vào đã gây hiệu lực ghê gớm cho cơ thể con người, đến bực thay đổi hẳn tạng và sau cùng là cả tính tình. Đứng về phương diện khoa học để nhận xét, thì thuốc phiện vẫn được liệt vào hạng độc dược loại làm xáo động tinh thần (stupéfiant), làm tê liệt các tế bào của khối óc, kích thích trong chốc lát những giây thần kinh để rồi làm cho bần thần, rã rời. Chỉ mấy đợt khói thôi mà con người đã đổi hẳn cả tính cách trong chốc lát lẫn bản thể với thâm niên. Là vì giây cân não cứ bị kích thích hoài sẽ trở nên bất định, căng thẳng khi người ta chậm hút hoặc sau khi khói đã hết hiệu lực kích thích. Tinh thần và vật chất vẫn có liên quan, tinh thần đã mỏi mệt thì thần xác với năm tháng sống cùng khói sẽ hao mòn và ốm o. Mặt bủng da chì đó là những hình dung từ rất linh động mà người ta vẫn gán cho những ả phiền không phân già trẻ, trai hay gái. Trai anh hùng cũng so vai rụt cổ. Gái thuyền quyên cũng mặt bủng da chì. Ở đây phải nêu yếu tố định đọat gần như “xây dựng” của thời gian. Vì rằng, chẳng phải một ngày mà người ta đã có thể thành ra so vai rụt cổ với mặt bủng da chì được. Phải có những năm tháng chồng trên cái ống hút mới khiến được người ta cứ phải hút hít, cố hút nữa nếu thuốc có pha nhựa (sái) hoặc chỉ có nhựa (sái) nặng khó hút. Người ta sẽ phải rụt cổ lại mà hút, so cả vai để hít. Sự cố gắng hàng ngày hàng tháng hàng năm đã tạo nên hình thức cụ thể: rụt cổ so vai, hình cổ điển của người nghiện.
Còn hỏi cớ sao lại có thể mặt bủng da chì ở người anh hùng quốc sĩ, ở khách má hồng thuyền quyên, thì biết làm sao được! Đó là hậu quả tai hại của các chất độc. Có điều ở đây chất độc cứ nhiễm vào các tế bào bằng chất khói và bởi mấy đợi khói thôi!
Cho nên, sau một thời gian quen với khói, người ta chi có hai con đường để chọn, người ta tới một chỗ ngoặt định đọat cả cuộc đời: một là mặc cho nghiện và như vậy thì dễ lắm, con đường sẽ thoai thoải êm êm như đi vào cõi mộng, đưa người ta nhập thế giới thần tiên. Và xung quanh ngọn đèn dầu lạc bản nhạc một nhịp cứ đêm đêm lại cất lên để bầy tiên nhảy múa những bước nhảy quái đản, những điệu múa Liêu Trai. Song nếu “đương sự” kịp giác ngộ để nhận kịp thấy rằng từng ấy bản nhạc, từng ấy nhịp nhảy điệu múa sẽ chỉ đưa tới thiên đường giả tạo của… ma quỷ, nếu “đương sự” kịp nhận chân như vậy thì tất sẽ theo con đường “trở về” – theo cái tên chỉ lóe ánh sáng thiên lương. Người ta sẽ “ngoẹo” về cái xã hội người, họat động và thực tế, để nhập tịch cùng đoàn người lành mạnh, có ý chí. Và như vậy chỉ có một sức giác ngộ mãnh liệt, một sự cương quyết ghê gớm. Vì thực ra thuốc phiện không phải dễ bỏ như nhiều người tường.
Chất khói đã xâm nhập tế bào, gây một phản ứng ghê gớm nếu không được tiếp tế một cách liên tục nghĩa là cũng chỉ bằng chất khói. Ả phù dung! Các cụ nhà chúng ta đã mệnh danh chất thuốc phiện như vậy quả đã tri kỷ, tri bỉ - biết mình biết người – Đó là “ả phù dung”, một thứ gái Liêu Trai, chỉ lại với người trong lúc tranh tối, tranh sáng khi đèn đã đốt lên, để rồi ám ảnh, hãm hại, như chúng ta đã biết, người hiếu sắc, nằm chết còng queo trên cái mả lạnh buổi sáng mai!
Cho nên từ thế giới ma trở về được thế giới người, từ cõi âm về cõi dương, giác ngộ và nghị lực nhiều khi cũng bất lực. Và con người mê muội trong truyện Liêu Trai đã dứt tình về được cùng xã hội người thực nhiều khi đã do một sự may mắn, người tin số mệnh thì cho đó cũng là tại số. Nhưng khó khăn chật vật trong việc ruồng bỏ ả phiền không phải là điều bí mật nữa một khi ả phiền đã đời đời là sự sợ sệt kinh hãi, là ám ảnh khốc hại cho bao gia đình cho bao nhiêu bà nội trợ. Đức ông chồng có mê gái, các bà cũng không kinh sợ bằng mắc thuốc phiện vì, khá khen các bà rất thực tế, các bà cho rằng mắc gái một ngày kia có thể nhạt chớ mắc nghiện người ta chỉ có một ngày một nặng thôi!
Điều khiến các bà còn sợ thuốc phiện hơn là tính tình người chồng thay đổi. Quen sống với điếu thuốc vê nhỏ và những sự cỏn con, tủn mủn, quen đếm, này điếu thuốc này viên sái, người nghiện dù phong lưu giầu có cũng trở nên keo cú, tính nết bẩn thỉu, nghèo tình cảm và chỉ biết có thuốc phiện! Người ta kể chuyện một anh nghiện nhà nghèo thiếu thuốc đã ăn chặn tiền mua sách của đứa con và thản nhiên trước sự khóc mếu của nó – nó khóc mếu vì không có tiền mua sách, sợ thầy giáo mắng. Mẹ nó đã hy sinh cho nó hai đồng tiền. Nó vụng về hay quá sung sướng vội đánh rơi xuống sàn gác. Ông bố thoáng nghe thấy tiền liền sổ ra lấy chân chẹn lên và nhất định không trả.
Và người cha không xứng đáng (le père idigne) đã cướp đồng tiền chạy vội xuống cầu thang đến tiệm hút quen thuộc, để mặc đứa con khóc mếu gào sợ không dám đi học nữa. Và người vợ đã lắc đầu chán nản, thất vọng hoặc tuyệt vọng khi thấy tương lai của đức ông chồng đã bị “cầm đợ” không có cơ chuộc và tiền đồ của gia đình mình đã bị những trái đạn viên thuốc sái công phá trong lửa thiêu của đèn dầu lạc.
Song biết làm sao được! Vì rằng ai lại chẳng rõ hút xách là chết, là tự sát, mà người ta vẫn cứ hút, bởi lẽ mấy ai đã có đủ nghị lực, đủ ý chí, đủ cương quyết, một khi đã “ngậm dọc tẩu”, để khắc phục được mình, được thói quen độc tài mãnh liệt và tàn nhẫn đó. Vì thói quen ở đây đã có cả một hậu thuẫn ghê gớm là bản tính con người vốn ưa hưởng thụ, mà thuốc phiện là một thú vui ghen tuông. Thói quen ở đây đã suốt bao năm tháng dự trữ và nuôi nấng – dầu rằng chỉ bằng chất khói – cả đội quân thứ năm đóng rải rác ngay trong nội địa, sẵn sàng hy sinh cho chủ nghĩa ăn hút, cho mẫu quốc Ấn Độ (theo tục truyền, thuốc phiện phát nguồn từ Ấn Độ). Ấy là những… tế-bào.
Bạn đọc sẽ có dịp đọc ở đọan cuối thiên phóng sự này tập nhật ký cai thuốc phiện trong đó sẽ có ghi từng giờ từng phút cuộc quấy rối ghê gớm, cuộc phá phách của đội quân thứ năm trên đây. Bạn sẽ thấy ở rất nhiều trường hợp những tế bào gián điệp đã thành công.
Người muốn đóng “cai” đã chẳng cai được thuốc phiện và trong hàng ngũ cấp bực nặng nhẹ, anh đã vượt bậc “cai” để trở nên “chuẩn uý” để rồi hiện này là “đại tá” điều khiển xe, lọ, đạn, súng ba-dô-ca ngay trên giường nằm. Để rồi, qua những đợi khói lam tưởng như đi mây về gió, “ta là đàn chim đi trên mây xanh”, “bố mày” (!) da tái mét đã có lúc cao hứng cho mình cũng là quan ba… tầu bay.
Cách! Cách! Cách! Ba tiếng gõ lặng lẽ ròn rã như những tiếng thỉnh ma đã cất lên. Cô đầm đã choàng dậy, đón ống hút, hít một hơi dài. Ro… ro… to… Làn khói nhuôm nhuôm đã toả ra, thơm thơm, khét khét sặc sụa. Hút xong, cô uống một hụm nước nóng sôi, giơ lên ngọn đèn châm điếu thuốc lá thơm, hút một vài hơi rồi lại nằm lịm xuống, khoan khoái. Trong khi ấy anh bồi tiêm thuốc như vậy đã gây một bầu không khí họat động nho nhỏ bằng những cử động con con, trong một căn phòng im lặng mà người “chủ động” là cô đầm thì lại “tĩnh” hoàn toàn.
Tĩnh đến mực khêu gợi với lối nằm dài buông thống, hai chân ruỗi thẳng, bụng và ngực để lộ những đường cong đường nổi dưới làn áo xiêm lụa. Nếu giầu tưởng tượng ta sẽ cho đây là một Hằng Nga ngủ trong rừng trong truyện thần thọai. Và thực tế một chút ta sẽ thấy tâm thần xáo động trước một thân hình đàn bà đẹp nằm ngửa, tay cũng buông mà chân cũng buông, trong cái thế cổ điển thụ động của giống cái mà giấc ngủ thiêm thiếp của nàng lại là một sự đồng loã nên thơ.
Cách! Cách! Hằng Nga đã lại bị thỉnh về trần thế. Và ro, ro, ro đây là điếu thứ 150
Em ơi! Mộng đẹp đã tan rồi!
(J. Leiba)
Trước mắt ta, chỉ còn một người đàn bà – Việt Nam hay Pháp có hề chi – một người đàn bà ốm o, môi nhợt nhạt, mái tóc lôi thôi và áo xiêm xốc xếch, một người đàn bà ích kỷ, keo cú bắt lấy dọc tẩu hút như hút tất cả các sản vật của trần thế về cho riêng mình. Và làm cái việc rất vô ý thức là đốt hết tất cả của cải sản vật cần thiết cho nhân sinh đó ra khói, chỉ ra khói thôi!
Và đây là điếu thuốc thứ một trăm năm mươi một lẻ (151). Nàng đã trở nên tỉnh táo một cách không ngờ, ngồi hẳn dậy một cách rất khoẻ khoắn và rút ví tiền, kêu anh bồi tiêm:
“Anh ra mua cho tôi ly cà phê và bao Camel”.
Anh bồi “dạ, dạ” rồi đứng dậy, uể oải lấy ly ra đi.
Ngồi một mình trong căn buồng vắng, mặc dầu đã có Tưởng Thống Chế đứng trấn trên tường cao. Nàng đã lim dim đôi mắt mơ màng suy nghĩ qua làn khói thuốc lá. Nàng ôn lại cuộc đời đã qua và không có một tư tưởng nào dù đẹp dù xấu về hiện tại, bởi lẽ nàng đã đi sâu vào cuộc đời trụy lạc lại đeo thêm cái nghiệp nghiện hút. Thì biết làm sao được! Và cũng như ai, nàng đã:
Muốn để ngày tàn đắm cõi quên!
(J.Leiba)
Nàng chỉ ngậm ngùi khi nghĩ đến con, một con trai đã chết ngày nào tại đồn điền cao su vì bệnh kiết lỵ, một con gái hiện nay vì hoàn cảnh gia đình nàng đã giao cho các bà xơ. Anh bồi tiêm đã về với ly cà phê nóng và bao thuốc lá con Lạc Đà. Anh lại nằm xoà xuống cạnh bàn đèn định tiêm nữa. Nhưng cô đầm đã ra hiệu bảo thôi. Vì kiểm điểm lại ví tiền, cô thấy không còn đủ trả nữa! Nghề mãi dâm vốn cũng như mọi nghề có những bước thăng trầm. Ít tiền cô đành phải nghỉ chuyện tiêm morphine.
Đến đây chúng ta lại trở lại cái quán lợp tôn đường Lefèbre vừa rồi để nhận thấy ngồi bên cạnh những dân nghiện “morphine” đang tự trích (tiêm) hay chờ bạn trích dùm là người đầm có tiểu sử bi đát trên đây. Là vì tới một giai đọan quá sâu của nghiện ngập, tới một mức quá nặng của thuốc phiện, người ta không thể nằm hút một cách thông thường như mọi người nữa. Tiền hút sẽ quá nhiều, ví dụ như cô đầm của chúng ta mỗi bữa hút 150 điếu, mỗi điếu có nhựa (sái) giá trung bình là 5$ (con số tính năm 1955) thì tiền chi phí mỗi ngày một bữa hút sẽ là: 5$ X 150 = 750$ và nếu mỗi ngày nàng dùng có một bữa thì một tháng số tiền chi tiêu sẽ là 750$ X 30 = 22.500$, ấy là chưa kể tiền thưởng cho bồi tiêm, tiền chi phí về những quà ăn vặt hay mọi thứ giải khát hoặc đồ mát cần thiết để chế ngự chất nóng của thuốc phiện.
Số tiền bỏ ra mỗi tháng như vậy thực là ghê rợn, thường thì nó đã vượt sức kiếm ra của con người. Song đó là những con số đặc biết mà chúng ta chỉ có thể đặt vào trường hợp đặc biệt của cô đầm trong những giờ phút hoặc ngày tháng cực thịnh của nghề mại dâm. Cực thịnh nghĩa là mỗi khách cô kiếm một thiên, mà mỗi tối trung bình là năm quý khách. Vậy thì hơn trăm điếu thuốc có nghĩa lý gì, nhất là lại hút với mục đích kích thích gân cốt. Riêng đối với chứng nhân thực thụ nghiện số tiền bỏ ra hàng ngày để hút thường được tính toán rất chi ly nhưng vì phải xài đều đều do lẽ tích tiểu thành đại, lại nữa vì nghiện đã tới mức quá cao nên trung bình người ta mỗi ngày hút hai bữa mỗi bữa chừng 50 điếu. Số tiền tròn trĩnh mỗi tháng sẽ là: 5$ x 50 x 30 =15.000$.
Đã tới trình độ quá cao này, người nghiện V.N. đành phải rút lui về cái quán tôn đường Lefèbre để tìm thấy hiệu lực say tương đương với chừng 1, 2 ống (ampouple) morphine. Giá mua mỗi ống morphine 2cc chỉ trên dưới 20 đồng!
Song, như đã nói ở đọan đầu thiên phóng sự này, chất morphine vốn bắt buộc người trích phải theo một cái đà cấp số giết người. Và với thời gian, con người morphine sẽ thác vì morphine và người “anh chị” của vỉa hè một ngày kia sẽ bất thình lình thác trên vỉa hè.
Còn một yếu tố định đọat nữa trong sự bắt buộc phải dùng morphine ấy là thời gian. Mỗi ngày hai bữa đến nằm tiệm, mỗi điếu thuốc từ lúc nướng đến lúc hoàn thành trung bình đòi hỏi năm phút. Đây là nói trường hợp thuốc được nướng kỹ và sửa soạn thận trọng, điều kiện để được hút ngon. Vậy thì nếu mỗi ngày hai bữa, mỗi bữa 50 điếu, số lượng thời khắc phải dành riêng giữa một ngày trong 3 vạn 6 ngàn ngày một đời người sống trung bình sẽ là:
5 phút x 50 x 2 = 500 phút
Tính ra giờ thì là:
500 : 60 = 8 giờ mỗi ngày!
Cho nên phần đông đã không đủ điều kiện để cho thời gian buông trôi một cách tiêu cực như vậy và choán cho thuốc phiện một phần ba mỗi ngày (24 giờ: 3 = 8 giờ). Người ta đã tìm đến quán lợp tôn đường Lefèbre kiếm hiệu lực kích thích tương đương mà chỉ tốn có 5 phút! Vì mỗi ống trích morphine mỗi lần 2, 4 hay 6cc chỉ đòi hỏi, với bàn tay anh chị lành nghề và không cần đun sôi ống trích, một thời gian kỷ lục: 5 phút!
Vì tính cách tiết kiệm đặc biệt về tiền bạc và thời giờ như vậy nên morphine đã trở nên một món hàng giá trị, cần thiết được một số khá quan trọng khách hàng đòi hỏi. Rồi thì cũng như mọi thứ hàng cần thiết, morphine đã trở nên vật hiếm để cho bọn con buôn trục lợi đầu cơ. Chao ôi! Người ta đã không thương những thân hình gần đất xa trời kia nữa! Ở bất cứ đâu và bất cứ thời gian nào, những con buôn trục lợi quả đã là những đứa giết người. Mua morphine phải có giấy, có carte cai thuốc phiện. Tụi con buôn đều là khách trú liền tung người ra khắp các nơi mua lại các sổ cai. Chúng đã mua vơ vét hết thuốc morphine dolosal, và eubine. Theo một tờ tuần báo xuất bản hồi tháng 4 d.l. vừa qua ở đây thì nhân viện y tế phụ trách đã bị đưa ra pháp luật vì ăn tiền khách trú để phê duyệt “lu bù” các sổ cai. Mụ chủ quán lợp tôn đường Lefèbre chỉ là một người buôn lại, đầu cơ nấc thứ hai. Nhưng vì trực tiếp với các nạn nhân nên trên cái thị trường morphine giữa trời này, mụ đã làm mưa làm gió, cầm sinh mạng của một bầy người ốm o xung quanh. Như trên kia đã nói, mụ là người đàn bà chột mắt nên đã rất tàn nhẫn với thần dân morphine. Người ta kể chuyện Anh Ba Còm một buổi sáng vì không tiền mua thuốc trích đã nằm chết vật trên vỉa hè trước một con mắt lạnh lùng và một con mắt chết của mụ, mặc dầu Ba Còm từ mấy năm nay vẫn là khách hàng trung thành và nhiều khi rất sộp với mụ.
Như các bạn đã thấy rõ những người nghiện đã phải trích morphine đều là những nhân vật đã qua cấp trung đẳng nằm hút thông thường để vượt lên cấp cao đẳng hoặc nếu cần cấp… thạc sĩ.
Và thiên phóng sự này, trái với thường lệ, đã không đi từ nhỏ đến to, từ thấp đến cao, từ giản dị đến phiền toái. Nó đã đi xọc ngay vào cái mả lớn của nghiệp chướng nha phiến tức là cái kiosque lợp tôn đường Lefèbre. Nó đã đề cập ngay tới những nhân vật cao cấp trong nghề nghiệp – cũng như trước khi nói về cấp bậc tiểu học người ta đã giới thiệu ngay các bậc đại học, các bậc cử nhân. Chỉ vì người viết thiên phóng sự này đã viết về thuốc phiện mà về cái nghiệp của muôn kiếp này tưởng phải xông ngay vào cái hình thức ghê rợn và kinh khủng nhất, ấy là những cuộc trích morphine.
1955
[1]Chú thích của nhóm nhập liệu [năm 2007]: Văn bản này được dùng với từ ngữ, văn phong trước đây, chỉ những lỗi nào quá rõ ràng thì nhóm nhập liệu mới sửa đổi, thay thế; còn không thì để nguyên, cố gắng trung thành văn cảnh thời bấy giờ.
[2]Hàm Nghi ngày nay [chú thích của Triều Đẩu]
2
Những tiệm hút công khai
Sau khi đã đặt chân di dân trên đất Sài Gòn – Chợ Lớn và sau khi đã tạm ổn một số công việc cấp bách, cần thiết, tôi đã theo bản tính tò mò của tôi muốn biết sớm những vẻ, những cạnh của mặt trái Sài Gòn. Tôi muốn được chính mình trông thấy, nghe thấy, sờ mó thấy những hình thức nổi trầm của Sài Gòn ăn chơi.
Mới ngày nào, còn ở ngoài Bắc, những tiếng vọng của trụy lạc, những hình ảnh viễn chiếu của tứ đổ tường từ Sài Gòn – Chợ Lớn, từ kinh đô ăn chơi này, đã mang tính chất đồ sộ, loã lồ kinh khủng về bề rộng, bề sâu, bề cao. Và bên cạnh những cái đồ sộ, loã lồ, kinh khủng đó, Hà Nội – nơi nghìn năm văn vật giữa đất Thăng Long cổ kính – Hà Nội không thể sánh bì kịp. Có làm sao! Người ta đâu có thể chỉ so sánh những cái hay, cái đẹp, cái đạo đức – người ta vẫn hằng so hơn kém cái xấu, cái hỏng, cái lưu manh, cái mạt kiếp, mà ở phạm vi này người đời lại thấy thú vị hơn. Vậy thì, ngày còn ở Hà Nội, tôi đã được người mới ở Sài Gòn ra cho biết ở Sài Gòn hiện nay đánh bạc công khai, chơi gái công khai, hút thuốc phiện công khai và uống rượu cũng công khai. Và lại đồ sộ nữa nghĩa là sòng bạc rộng lớn. Vườn lài rộng lớn, tiệm hút rộng lớn và tiệm rượu rộng lớn.
Tôi đã xuýt xoa để thèm muốn hay để chê bai, và trầm trồ để ca ngợi hay để đả kích? Có thể rằng mọi sự vẫn được tô mầu hồng qua không gian, có thể rằng từ xa xăm, từ Sài Thành thơ mộng chúng ta đã sẵn có những cảm tưởng đẹp, dẫu rằng mới chỉ qua những ảo tượng. Nhất là lúc ấy Hà Nội vẫn cố giữ những phong tục cổ kính, những lề thói ngày xưa, mặc dầu trải mấy lần chiến tranh, mấy lần đổi thay về mọi phương diện.
Y như cô gái lương thiện mặc dầu bị gia biến vẫn gìn giữ lấy nếp nhà. Mặc dầu xung quanh người ta hư đốn cô vẫn giữ được giá trong. Hà Nội từ bao đời vẫn là nơi xuất xứ, nơi phát tích, nơi bảo tồn, để truyền lại, tất cả những mỹ tục thuần phong cùng những tư tưởng mang dân tộc tính. Cho nên do tình cờ hay do số phận mà địa dư đã đồng loã để chứng minh sự mâu thuẫn của 2 thành phố đứng ở hai đầu dây, Hà Nội và Sài Gòn, thực vậy, đã ở vào hai vị trí cách biệt, khí hậu đã thay đổi thì tính tình con người vốn lệ thuộc khí hậu tất nhiên sẽ cũng thay đổi. Đồng thời cách sinh họat cũng thay đổi mà nếu tứ đổ tường ở đây có phô bầy hình thức công khai và đồ sộ ngoài những nguyên nhân thuộc kinh tế hay chính trị, chúng ta sẽ không lấy làm ngạc nhiên ở cái nơi nắng suốt nửa năm trời và mưa cũng suốt nửa năm trời.
Vậy thì sau 3 ngày 3 đêm sống rất “đạo đức” trong cuộc đời di cư buổi đầu, tôi đã gặp anh bạn L. Anh L. là một nhà văn nổi tiếng ầm ĩ một thời. Có lẽ vì vậy mà anh đã phải di cư lặng lẽ và sớm hơn mọi người khác. Tới đây nhờ tài tháo vát, anh đã tạm gây được một cơ sở tuy chưa hẳn vững vàng nhưng cứ trông cái bề ngoài thì cũng thấy hào nhoáng. Đối với phần đông chúng ta thì sự trạng giả dối mầu mỡ riêu cua nếu không đáng thưởng phạt thì cũng đáng tức cười. Nhưng tiểu thuyết gia L., quen sống với những giả tạo nên về thực tế, anh cũng quen “tiểu thuyết” cứ “trộ” thiên hạ hoài và có khi “trộ” cả anh em. Tôi biết rõ anh lắm cho nên vẫn có thể thân mật với anh trong cái số bạn thân mật rất hiếm hoi của anh.
Gặp nhau, chúng tôi đã trao đổi những lời hàn huyên thường lệ, để rồi bất thình lình tôi vỗ vai anh vừa cười vừa nói:
“Anh hãy cho tôi biết Sài Gòn”.
L. nhìn tôi, cười hóm hỉnh:
“Sài Gòn – Chợ Lớn, đại danh từ kép mới đúng…”
Và nháy mắt một cái rất tinh quái, tinh quái đến ghê rợn với đôi mắt trắng dã trên làn da mặt sạm đen, anh hỏi dồn tôi:
“Được rồi! Nhưng ta nên đi cái nào trước, cái nào sau? Gái trước hay thuốc phiện trước? Hay rượu đã và cờ bạc đỏ đen ta để sau cùng?”
Tôi còn đang phân vân trước một “lô” đùa giỡn như vậy thì L. đã trả lời hộ tôi, cũng rất vội vàng hấp tấp theo thói quen của anh:
“Ta bắt đầu thăm các tiệm hút đã. Kinh phí về bốn đổ tường đêm nay ít ra cũng 5 bách. Đó là theo năng lực của túi tiền của chúng ta. Anh đã có đủ năm bò chưa?”
Thấy tôi gật đầu, anh đứng dậy cười ròn tan và không quên kèm theo những tiếng khen thiên hạ một cách rất phí phạm cũng theo thói quen của anh:
“Tôi chịu anh! Thực là nhất anh nhé!”
Thế là chúng tôi ra đi vào khoảng hơn 10 giờ đêm, giữa lúc mà cái dạ dày đã được no đủ thoả mãn, con người đòi hỏi những thú vui, những kích thích cân não. Mà ở cái xã hội vẫn được tiếng là văn minh thể theo nguyên lý tiến bộ, thứ gì cũng trở nên phiền toái, cầu kỳ, kể cả những cuộc vui, kể cả những thứ giải trí nghĩa là giải thoát ở con người tất cả những bực dọc lo toan và chán nản.
Đô Thành Sài Gòn - Chợ Lớn giờ này đang bừng trong ánh sáng điện néon đủ mầu, ngoài thứ ánh sáng trắng bệch của đêm đêm. Trong bầu không khí như tối như ẩn như hiện, xe cộ, người và vật ngụp lặn, nhung nhúc, ầm ĩ, loạn xạ, rối mắt. Giữa cảnh nhộn nhịp đó, chúng tôi đã kiếm một tắc xi để đến con đường Lacaze.
Một nhà nữ văn hào Pháp đã nói: Những cảm tình đầu tiên bao giờ cũng thành thực hơn hết. Vậy thì bạn L. và tôi bước lần đầu tiên vào tiệm số… đường Lacaze, một tiệm Tầu, tôi đã thành thực sửng sốt và kinh hãi. Một quang cảnh chưa từng thấy đã hiện ra trước mắt tôi. Cho dẫu sức tưởng tượng của tôi có mãnh liệt đến mấy tôi cũng chỉ hình dung, quen như ngày nào còn ở Bắc Việt ở Hà Nội, một tiệm hút dầu rằng tiệm Tầu chỉ có thể có nhiều nhất là 4, 5 bàn đèn (mâm hút) và đặt một cách kín đáo, một số ở trong phòng riêng, một số ở trên ghế ngựa, một ở góc tường này và một ở giường góc nhà kia. Để nếu cần thì là một bàn đèn nữa, lấy cớ đầy khách hút, có thể đặt ngay trên chiếu dài giữa nhà ngay trên nền lát đá hoa. Đó là tiệm hút số nhà 43 phố Hàng Dầu, Hà Nội sau đền Bà Kiệu trước đền Ngọc Sơn, Bờ Hồ năm 1954. Và như vậy xung quanh mỗi bàn đèn là một số khách hút riêng biệt. Bàn đèn trong phòng kín đáo kia là giang sơn riêng biệt thường ngày của một vài người Pháp và của đôi vợ chồng một giáo sư cử nhân khoa học người Việt mà kẻ viết thiên phóng sự này đã từng là học trò tại trường Bưởi. Còn những bàn đèn nhà ngoài gồm toàn những khách “tự do” không cần đếm xỉa đến dư luận. Song ai nấy đều giữ gìn sợ sệt coi chừng nhà chức trách. Vì ở ngoài Bắc dạo ấy vẫn có lệnh cấm hút, cấm triệt để. Ông chủ Tầu đã cẩn thận đặt tiệm tại một nơi kín đáo lui hẳn vào phía tận cùng trong nhà. Muốn vào đấy phải qua mấy lần cửa và mấy căn nhà. Trừ phi là khách quen thuộc mới biết lối đi ngoắt ngoéo, còn khách lạ thì nhất định sẽ lạc, khó mà tìm tới nơi.
Thế mà tại số… đường Lacaze Chợ Lớn nay, tiệm hút chỉ mang số nhà như mọi nhà không buôn bán nghĩa là không có biển hiệu, mắt tôi đã bị loá bởi ánh sáng của 5, 6 chục mâm hút (bàn đèn) đặt song song trên hai bục gỗ cao hai bên, để một lối đi giữa lủng củng những ống nhổ men dạn và ngổn ngang nhiều giày dép, guốc. Từ trên tường cao, mấy ống điện néon toả ánh sáng yếu ớt phải chung sức với chục ngọn đèn dầu lạc mới đủ chiếu sáng căn nhà rộng cùng mấy chiếc kim im lìm trên mặt chiếc đồng hồ Jaz mặt lớn lưng chừng cao. Còn người, người – vì người bao giờ cũng là yếu tố căn bản và quan trọng dẫu rằng là người khách hút – người ở đây quả đã kinh khủng trong cảnh nhân mãn. Người, người, ôi thôi! Biết làm sao được! Dẫu sao cũng phải gọi họ là người có đủ mắt mũi, thân và chân tay, có trái tim để cảm xúc, có khối óc để suy nghĩ như anh và tôi. Song bầy người xanh xao, khẳng kheo, mặt lệch lạc và thân hình tiều tuỵ đang kẻ nằm người ngồi nói chuyện ầm ĩ, hoặc cái miệng hít, cái cổ phập phồng tạo nên những tiếng ro, ro và làn khói trắng đặc sịt. Cái thế giới nhộn nhịp loạn xạ, kềnh càng, hôi hám, tập trung thành từng đám nhỏ xung quanh ngọn đèn dầu lạc toả ánh vàng khè để tìm sinh lực y như những kẻ bộ hành trên sa mạc quây quần xung quanh một điểm mát có cây có nước, một oasis để lấy lại sức khoẻ hoặc như những khách phiêu lưu, những nhà thám hiểm ban đêm trong rừng khuya hội họp xung quanh những đốm lửa để tránh những ác thú.
Ở đây, trong cái tiệm gần như kín mít và sặc sụa những khói thuốc cùng hơi người này, họ không phải là những người bộ hành có mục đích, những nhà phiêu lưu có lý tưởng, những nhà thám hiểm có chương trình. Họ chỉ là những con người mệt mỏi, có họat động đôi chút thì cũng do thuốc phiện kích thích trong chốc lát, có ba hoa về thời cuộc hay bình luận về chính trị thì cũng chỉ là hão huyền suông tình và tiêu cực qua khói vụt dâng lên để rồi lại vụt biến đi.
Như trên đây đã nói, họ cũng là người như ai nhưng là một thứ người của thuốc sái, nghĩa là hỏng kiểu (anormal) có mắt nhưng mắt mờ, có tai nhưng tai ù, có thân hình và chân tay nhưng đều là thứ giả tạo, chỉ có thể cử động khi đã hút đủ liều khói tiếp xúc, có khối óc để suy nghĩ nhưng chỉ suy nghĩ quẩn quanh sao cho có tiền hút, và sau cùng là trái tim thì lại bị khói thuốc ám đen và sái thuốc quyện vào máu nên khô cạn không còn tình cảm nữa. Nghĩa là hết yêu, hết ghét, hết giận, hết sợ, hết mừng, hết buồn và hết cả muốn nữa.
Như vậy thì trước mắt tôi chỉ là ngót 200 người giả (robot) cử động không phải do luồng điện mà chỉ bởi luồng khói. Ở kia điện bắt sèo sèo thì ở đây khói cất lên ro ro!
L. và tôi trước khi tới những dẫy phản gỗ đặt mâm hút phải qua cửa một căn phòng nhỏ bé, có một cửa sổ nhỏ bé, trổ ra phía ngoài. Đó là nơi bán thuốc, một thứ văn phòng của chú khách béo mập, bậm áo ti-cô, và quần sắn cao phía trước để lộ cái bụng quen thuộc với cái rốn sâu; chú đang cân thuốc trên những ngao to nhỏ: thứ 10$, thứ 20$, và thứ 30$. Bên cạnh chú, la liệt một số đèn chờ đợi nên chưa đốt lửa.
Trên cái giá đóng vào tường đặt song song một hàng dọc tẩu (ống) đủ các cỡ các kiểu mầu đen hoặc nâu sẫm cái nào cũng đã lên nước bóng nhoáng. Những ống hút, mỗi khi dùng lâu trong một buổi hút, thường tiết ra một thứ nước đắng và hôi kinh khủng nên phải lau thấm bằng cái bấc làm bằng giấy xeo tròn. Thế mà trong văn phòng này trên cái xích đông cao, những bấc giấy kia đã được xếp dự trữ thành từng bó kể có mấy ôm chặt. Đủ biết sức tiêu thụ thuốc đã kinh khủng cũng như nghề bán thuốc đã phát triển ghê gớm. Vả đã đến lúc phải đặt bên cạnh thiên phóng sự này 3 chữ cấp cứu S.O.S. chưa?
Tôi ngơ ngác đi sau anh L. tiến vào cái xã hội hút. Một người có vẻ Tầu đang nằm trên bục gỗ, thoáng thấy chúng tôi vào liền ngồi dậy và đứng lên chào chúng tôi như đã quen thuộc từ trước. Anh ta giơ tay chỉ một khoảng trống trên bục gỗ và mời chúng tôi vào chiếm chỗ đó.
Chúng tôi chưa kịp ngồi thì, từ mâm hút ngay cạnh đó một tràng tiếng cười ròn ném về phía chúng tôi. Nhận ra ngay là bạn quen, L. liền cười ngặt nghẽo, cười ngả hẳn người về đằng sau rồi giơ tay bắt bàn tay anh bạn vừa chìa ra. L. liền giới thiệu tôi với anh bạn nghiện: Đây anh T.Đ. nhà văn mới di cư và đây anh X. vẫn ngâm thơ trên đài phát thanh.
Tôi vụt nghĩ tới cái giọng ngâm thơ đều đều oang oang quen thuộc mà tôi vẫn cho là phản tuyên truyền phản… đài phát thanh.
Đến nay, đối chiếu người với tiếng, tôi đã chẳng ngạc nhiên, như vẫn ngạc nhiên trước chân và mộng, thực tế với tưởng tượng và người nghệ thuật với người ngoài đời. Vì ở đây người nghệ thuật đã xa vắng mà người ngoài đời thì gần gụi. Gần gũi một cách quá quẩn… Chiều nay, bên cạnh mâm hút, X. đang nằm ngậm ống hút mặt nhìn về phía chúng tôi chừng muốn nói nhiều điều dồn dập song cổ và miệng anh còn bận phập phồng và giật giật, hút khói và sáng tác những thanh âm độc điệu ro, ro, ro, ro!
Người chỉ chỗ nằm cho chúng tôi vừa rồi đã cầm chổi lông gà quét lia lịa cho có vẻ ân cần vì thực ra không còn bụi gì nữa. Anh đã đặt hai chiếc gối xứ cứng rắn và nhờn mồ hôi lên đầu chỗ nằm. Đọan anh rót hai chén nước chè ấm ấm, hai chiếc chén thô kệch ám cặn nước chè nâu sạm. Từng ấy cử động ở anh đã quen thuộc máy móc trong sự lặng lẽ và sẽ sàng khiến cho tôi tò mò chú ý vì là chứng kiến lần đầu tiên. Trừ tôi ra, đối với những khách hút hiện diện lúc ấy, anh bồi tiêm chỉ là một nhân vật tầm thường, không ai để ý đến đời sống của anh, đến những tấm giẻ đầy sái thuốc long lở tha lay lắt cái nghiệp sống vật vờ do những tiền “puốc boa” của thiên hạ.
L. và tôi đã bước lên bực gỗ, cởi quần áo sửa soạn nằm dài như mọi người. anh bồi tiêm sẽ sàng hỏi chúng tôi:
“Hai thầy lấy mấy ngao?”
Tôi còn ngơ ngác chưa biết trả lời thế nào thì L. đã buông cộc lốc:
“Hai”.
Tức thì anh bồi không sẽ sàng nữa, anh đã kêu rất to bằng tiếng tẩu đọng oang oang như thổi qua cái ống:
“Lưỡng họp…”
Tiếng kêu vọng vào “văn phòng” thành 2 tiếng nhắc lại rõ rệt. Rồi thì anh phó chủ tiệm – anh chánh chủ tiệm vẫn bận cân thuốc và nạo sái – bung ra, nhanh nhẹn và gọn gàng, chiếc khay nhỏ, trên đó cái đèn cổ điển đã được thắp lên vững vàng và xung quanh là những dụng cụ cần thiết: một tiêm, một ống và thường thì có thêm cái kéo sửa bấc đèn. Phao đèn dầu lạc đã được rót đầy do một dụng ý và những móc và đồ đánh sái thì tuyệt nhiên không có cũng do dụng ý. Độc giả sẽ nhận thấy ở trong cái tiểu thế giới lửa và khói này, có cả một mớ ước lệ truyền tụng chớ không cần ghi vào giấy tờ mà một khi vào đây không ai có thể nói rằng không cần biết. Y như nguyên tắc tư pháp bất di bất dịch: Nul n’est censé ignorer la loi. Ai cũng phải coi là đã biết luật.
Nghĩa là không thể vịn vào cớ chưa đọc luật mà phạm pháp được. Vậy thì theo ước lệ đã được mọi dân nghiện công nhận, người nằm hút sau khi đã hút xong ít nhất là một ngao thuốc có quyền nằm dài tơ mơ cạnh bàn đèn cho tới cạn pheo dầu. Và sở dĩ không có móc cùng dụng cụ nạo sái và làm sái là vì công việc đó là thuộc độc quyền của chủ tiệm và được thực hiện trong “văn phòng”, lúc ấy do công tác kia đã trở nên một thứ “công binh xưởng”.
“C.B.X.” – chữ viết tắt của đối phương ngày nào để tránh nạn oanh tạc – “C.B.X.” đã sản xuất những viên sái tròn như những viên đạn để rồi đốt trên lửa tung khói qua cái ống dài vẫn được gọi rỡn là súng bazooka.
Mỗi viên đạn ghém đó giá 1$. Bán để người khách quyện với thuốc nguyên hút vừa dặm đủ “đã” say – vừa được gia – tức là thêm thuốc. Mỗi ngao giá 20$ - thuốc nguyên thì được 3, 4 điếu, nếu quyện với sái, 3, 4 viên thì sẽ được 4, 5 điếu. Cho nên người hút cũng như anh bồi tiêm đều không có quyền móc sái, đánh sái và vì vậy trên các bàn đèn đều không có đặt móc và các đồ phụ thuộc.
Mâm hút đã đặt ngay ngắn trên bục gỗ. L. và tôi đã giải y như mọi người, mỗi chúng tôi đều tưởng rằng bạn mình sẽ, bên cạnh cái bàn đèn đường hoàng, nhờ làn khói thơm với áo và quần giải như vậy để giải thoát hay siêu thoát, đi sâu thêm vào chủ nghĩa yên của bao nhiêu bạn cùng hội cùng thuyền xung quanh.
Điếu thuốc đã làm xong anh bồi tiêm quay dọc chìa đầu tẩu về phía tôi, tôi lắc đẩy về phía L. - L. cũng lắc nốt làm tôi rất đỗi ngạc nhiên.
Ý chừng L. đoán được ý nghĩ của tôi, nên anh đã nhe răng cười, răng trắng cùng với mắt lòng trắng, trước ánh đèn dầu, đã bóng lên như nêu cao rõ rệt một đặc điểm. Anh nói bắt đầu bao giờ cũng có vẻ ba hoa:
“Anh vẫn yên trí rằng L. nghiện rồi phỏng? Chẳng riêng gì anh, thiên hạ vẫn còn nhiều thằng yên trí rằng L. nghiện. Ồ! Anh ơi! L. nghiện sao cho được? Vì nghiện là tiêu ma sự nghiệp”.
Điếu thuốc đã hoàn thành vẫn giơ lên đi từ L. sang tôi, lại từ tôi sang L. y như một cái “cúp” luân chuyển, mặc dầu thuốc phiện không thể đi đôi với thể thao và bàn đèn không thể là một cái sân banh thu hẹp.
Nhưng anh bồi tiêm vẫn nhẫn nại chờ đợi, xem ai trong hai người nhận chiếc “cúp” nóng hổi kia.
L… hướng về phía tôi nói lớn:
“Tôi nhất định không hút đã lâu rồi. Ngay từ hồi còn ở Hà Nội. Anh đã biết đấy. Anh mà còn thấy thằng L. đi hút thì, thì tôi cứ xin đi giặt váy cho thiên hạ”.
Tôi vẫn biết bao giờ L. cũng thề bồi một cách phí phạm và nhiều khi không đáng thề thốt, anh cũng cứ nặng lời. Cho nên lần này anh có lấy cái váy làm bản vị cho lời thề, tôi cũng không thấy xúc động như lần đầu tiên được nghe anh thề. Phải chi lần này là lần đầu mà anh cho ra cái váy thì tôi đã xúc động biết nhường nào.
Cái “cúp” luân chuyển tí hon vẫn lửng lơ bám trên diện. Người bồi tiêm lúc ấy có thể cũng là một thứ trọng tài ba phải, không đủ uy tín để điều khiển cuộc chơi.
Tôi nói:
“Riêng tôi thì tôi vẫn tin ở năng lực tiềm tàng ở mỗi văn nghệ sĩ chân chính và nhà văn có tài ba và đức độ vẫn là người có nghị lực. Khi họ muốn “thôi” là “thôi” ngay, kể cả cái thứ khó “thôi” nhất là thuốc phiện. Cho nên tôi tin ở anh”.
Câu nói vừa rồi với tính cách thành thực đầy quả cảm của nó đã có đức tính làm cho “cầu thủ” L. hăng lên.
Tới lúc ấy thì anh vẫn nằm dài chân ruỗi thẳng trong các thế “tĩnh” hoàn toàn thích hợp, không thể thao chút nào. Rồi y như khi thấy bên mình vừa thua một “gôn”, L. đã chồm lên và hùng hổ thao thao, anh đã xông xáo như muốn gỡ:
“Bọn nhà văn chúng mình vẫn nêu cái chân thiện mỹ cho thiên hạ biết và noi theo. Chẳng lẽ mình lại bê tha, trụy lạc chơi bời hút xách để làm giảm thanh thế của văn minh ư? Vì anh cũng rõ văn với người, tác phẩm với tác giả vẫn có một mối liên quan về vật chất cũng như về tinh thần. Nếu anh hỏng về phần đời thì anh không thể sáng tác được gì lành mạnh.
Và nếu anh cứ nói chuyện đạo đức mà cứ chẳng đạo đức thì anh sẽ chỉ là một đạo đức giả trước con mắt của người ngoài đường, tức là người của đám đông”.
Đến đây cái “cúp” luân chuyển không biết về “cờ lớp” nào, bởi lẽ tôi cũng lắc mà anh cũng lắc. Tôi đã phải giải thích cùng anh bồi tiêm:
“Chúng tôi đến đây hôm nay chưa tiện hút chỉ là tò mò muốn lại thăm tiệm hút ra sao thôi. Vậy cho anh cứ hút, hút hộ chúng tôi. Anh cứ ro ro và thả khói để chúng tôi xem là được rồi”.
Và liếc nhìn L. lúc ấy đang lim dim hai mắt, tôi đã làm anh choàng tỉnh hất hàm như hỏi tôi. Vì tôi đã nói tiếp, gần như hỏi anh:
Anh L. nhỉ, hình như bọn mình chỉ thích nằm bàn đèn phiếm luận thì thật tuyệt”.
L. gật đầu như biểu đồng tình.
Anh bồi tiêm vừa được hai cái bổng không ngờ liền xin phép hai quý khách hay là hai Mạnh Thường Quân để lĩnh “cúp”. Anh đã nằm gối ngay ngắn trịnh trọng y như một người sắp hành lễ, anh đã cho ra một tràng ro ro và ro đều đặn khoan thai, rất lành nghề nếu không phải là thừa nghệ thuật.
Tiếng ro ro vừa rứt thì anh nhỏm dậy nghiêng mình tợp một hụm nước. Chúng tôi cứ chờ làn khói toả ra, làn khói báo sự thành công y như tại điện Vatican La Mã, tín đồ đang chờ đông đặc ngoài sân. Khi thấy có đợi khói bốc lên tại một ống khói trên nóc điện, tức là việc bầu chức vị tối cao là giáo hoàng đã hoàn thành rồi, tín đồ khắp thế giới mới biết ai là Đức Cha vĩnh viễn của muôn họ. Đằng này ở đây chờ đợi khói, chúng tôi đã chẳng thấy gì, dẫu rằng chỉ một sợi, một tia nhỏ. Thì ra “bố mày” (!) trong khi hút khoan thai và đều đặn đã, đồng thời, nuốt ực cả khói!
Đành phải trả cái gì của César cho César, chúng tôi đã trả cái gì của anh bồi tiêm, trả anh cái nghệ thuật hút cao cường đó. Chúng tôi đã trở lại cuộc phiếm luận về sự tương quan giữa văn nghệ với cái bàn đèn. Tôi nói:
“Văn nghệ sĩ thường hay muốn dùng những thứ kích thích cân não, kích thích lối siêu đẳng, quá kích thước. Đó là một hình thức siêu thoát vô song. Song thiết tưởng cái sở thích nầy không thể độc quyền mang danh hiệu văn nghệ sĩ”.
Vì tôi thấy thiên hạ chẳng phải là văn nghệ sĩ, thiên hạ có thể chỉ là những nhà buôn, bọn lưu manh, vô nghề nghiệp, nhà công nghệ hay chủ đồn điền, tụi gái điếm, cờ bạc bịp mà cũng nghiện oặt chẳng làm được một câu thơ hoặc suốt đời chưa hề đọc một cuốn tiểu thuyết. Về nhạc họ chỉ biết có điệu ro ro, mà về vẽ họ chỉ biết mầu sắc thuốc tốt hay xấu, và những đường ngang dọc của bàn đèn và ống hút. Thì đây, ngay xung quanh chúng tôi đây, một bầy nghiện hút người khẳng kheo và da tái mét, họ nhất định không phải đều là văn nghệ sĩ cả!
Đến đây thấy tiến vào một chàng tóc chải ngược, mắt đeo kính trắng, cằm thót vẻ mặt tầm thường, âu phục trịnh trọng, cổ đeo cà vạt và tay cầm ba toong song. Đi bên cạnh anh này, là một võ quan trẻ tuổi, cốt cách không ra vẻ võ quan chút nào. Vì nếu trút bột áo kaki cùng “lon” vàng ra, thì nhất định chỉ còn một thất phu đần độn ham hưởng thụ ăn tục nói khoác. Hỏi ra sau mới biết rằng đó là một đại úy trong quân đội Bình Xuyên. Hai người này vào nhìn lần lượt cả hai dẫy bàn đèn như tìm một người quen. Trông thấy họ, L. ngồi bắn dậy chìa tay ra, nói hấp tấp:
“Kìa hai anh! Chắc các anh định tìm tôi?”
Hai người kia liền ôm chầm lấy tay anh L. rung rung bắt và cùng nói:
“Đích rồi. Tôi đoán chắc anh ở đây nên lại tìm. Thôi chúng ta đi, đi ngay kẻo muộn”.
L. cáo thoái, chỉ về phía tôi:
“Thôi xin phép hai anh đêm nay. Tiểu đệ có anh bạn chí thân vừa ở Bắc di cư vào. Đệ có bổn phận phải tiếp đến sáng”.
Hai người kia liền nói ngay:
“Thì mời anh bạn đi cả”.
Và võ quan ghé vào tai L. nói thầm điều gì làm hai chàng cười khúc khích.
L. nói:
“Rất tiếc nhưng không thể được, tôi phải tiếp anh bạn cố tri đây”.
Họ đành phải từ giã tiến vào phía trong gặp X. bắt tay uể oải rồi thủng thỉnh ra không. Chừng X. cũng không muốn nhập bọn hoặc họ không muốn mời X. chăng? Nào ai biế, chỉ biết X. cũng như mọi dân nghiện, một khi đã vào bàn đèn thì đến Bố bảo đi cũng không được.
Họ đi rồi, tôi hỏi L. xem người cầm ba toong song là ai, thì được L. bĩu môi dè bỉu:
“Ồ! Thằng coi tướng vua bịp vẫn đăng quảng cáo ầm ĩ, in cả ảnh. Anh nhận ra ngay chớ gì”.
Trong một giây tôi hình dung ra ngay “giáo sư” mà có lần chính tôi đã gởi con tem 0$20 (giá tiền năm 1937) để đánh đổi lấy một tờ in tay (ronéotypé) có đủ cả lời đoán về thân thế và nhất là tình duyên. Đó là điều chính tôi đã nhấn mạnh khi tôi biên thơ và gửi tem. Ngày ấy tôi đang yêu một người, hai người say nhau như điếu đổ thì nhận ngay được tờ số của “giáo sư” gởi về ca ngợi tình yêu. Có điều đáng tiếc là đọan cuối, giáo sư đoán cuộc tình duyên đẹp thì đẹp vô cùng nhưng rồi sẽ tan vỡ một cách rất… phũ phàng.
Thì trái lại người đàn bà tôi yêu ngày ấy, say như điếu đổ, đã thành vợ tôi. Cơ chỉ và rất thực tế, thôi không cần mơ mộng nữa và lẽ dĩ nhiên là chẳng tiểu thuyết chút nào. Vậy thì đâu có sự tan vỡ với phũ phàng, khiến cho ngày ấy chúng tôi đã lo lắng sợ sệt đâm ra rất tin và càng phục “giáo sư”… và đã vui lòng nộp cho người con niêm hai cắc theo giá năm 1937, bằng bây giờ “lối” 100$.
Cho nên tôi đã đồng ý với L. mà thốt lên:
“Vua bịp ! Đúng là vua bịp”.
L. bật cười nói:
“Thế mà bây giờ anh chàng lại ngâm thơ cho thiên hạ nghe, thì thánh thật!”
Tôi nghĩ thầm:
“Lại ngâm thơ để lại ca tụng những tình yêu đẹp đẽ mong manh như hoa đào trước gió xuân!… Ngày nào…”
Thấy tôi im lặng, L. nói tiếp:
“Chiều nào, anh chàng cũng đi tuần các tiệm hút, gặp bạn nào sộp là đi ăn đi hát, sống cuộc đời rất phong lưu cốt cách…”
Tôi liền ngắt lời anh:
“Vừa rồi chúng ta đã nói thuốc phiện với văn nghệ sĩ. Tôi cho rằng thuốc phiện không cần thiết cho việc sáng tác và vì thuốc phiện mà nghệ sĩ không sáng tác được những tác phẩm lành mạnh. Lại nữa, nếu nghệ sĩ có mắc nghiện hút, nhất định không phải vì nghệ sĩ có một bản chất đặc biệt một cơ thể và những tế bào khác người. Vì rằng như vừa rồi đã nói thuốc phiện đâu chỉ có những đồ đệ trong đám văn nghệ sĩ trong giới sĩ mà cả nông, cả công, cả thương nghĩa là tam dân kia đều hương khói bốn mùa thờ Nàng Tiên Nâu. Thuốc phiện kích thích tinh thần trong chốc lát kiến người văn nghệ có ảo tưởng rằng Phiện là Tiên, cô Tiên. Song, khi thuốc hết hiệu lực, thân thể sẽ rã rời và tâm thần mỏi mệt thì chao ôi! Ai biết cho nhau!
L. nghe đến đây, liền ngồi nhỏm dậy cướp lời:
“Thì đúng như lời tôi vẫn nói, thuốc phiện là thuốc độc và văn nghệ sĩ chúng mình không thể tự tử bằng chất độc đó được. Hãy nghĩ đến sứ mệnh cao cả, đến lý tưởng thiêng liêng của mình, người văn nghệ mới gạt bỏ được tất cả những cám dỗ của thường tình.
Tôi lại ngắt lời anh:
“Có nên theo gương anh bạn văn trào phúng T. chỉ hút chơi, chớ không nghiện? Anh hút trên 20 năm rồi mà không ai bảo rằng anh nghiện. Tôi hỏi bí quyết của anh thì được anh thản nhiên trả lời: Chớ có hút đều, ngày hôm nay hút thì cách mấy hôm nữa mới hút hoặc có thể thất thường cách hàng tuần, hàng tháng cũng nên.
Thuốc phiện bắt nghiện chỉ vì người hút đã cứ hút đều, ngày nào cũng hút, và nhất là hút đúng giờ ngày hôm sau. Cứ như vậy thì đến khỏe như voi cũng bị mấy viên thuốc nhỏ xíu kia đánh ngã… nốc ao như chơi”.
Nghe đến đây, L... vốn tính hay cực đoan đã chồm lên nói:
“Không thể thế được!”
Trái lại, anh bồi tiêm đã mỉm cười; vừa vê thuốc trên mặt diện, anh vừa nói:
“Dạ! Nói có hai thầy, thuốc phiện mà giữ được chỉ hút chơi thì thật tuyệt không gì thú bằng…”
Tôi đang bâng khuâng vì ý niệm hút chơi thì thấy buốt nhói ở lưng khiến tôi đang nằm ngửa mà phải rướn mình lên u như mắc chứng sài uốn ván. Nhìn sang bạn L. đã thấy anh tơ mơ như tỉnh như say, mắt nhắm lim dim và thân hình buông trôi. Khói thuốc phiện vốn có áp lực đối với cơ thể, dầu người ta chỉ là khách bàng quan. Ánh đèn dầu lạc vốn có năng lực thôi miên, nhất là đối với những tạng người quen thuộc. Và xung quanh cái bàn đèn, vẫn có một “phạm vi từ lựa” thu hút con người y như đá nam châm. Nhưng bỗng nhiên, L. ngồi phắt dậy, tay gãi lưng lìa lịa, miệng nói lớn:
“Ờ! Có rệp… Chết chửa! Rệp!”
Và anh cứ gãi hoài.
Tôi lúc ấy cũng ngồi dậy như L. Nhìn xuống phản gỗ chỉ thấy vắt ngang một kế vạch thành đường thẳng tít và đen ngòm. Từ trong kế sâu thẳm đó, chắc chắn mấy chú rệp đã đánh bài du kích, đốt chớp nhoáng đủ thì giờ hút một ngòi máu cần thiết để rồi rút lui chớp nhoáng về cứ điểm bí mật. Chờ một thời gian nữa, giữa lúc người ta không đề phòng, quân du kích mới lại xung phong tấn công chớp nhoáng để lại biến vào trong khe.
Ở đời có những sự tình cờ kỳ cục do đó mọi sự như đã được sắp đặt từ trước bởi một ý định giễu cợt thần bí. Thí dụ như giữa lúc bị rệp đốt trong tiệm hút tôi đã kịp nhớ ra tôi có mang theo một ống nhỏ bột thuốc D.D.T. Là vì ban chiều tôi đã vào một tiệm thuốc tây mua thuốc này về nhà định để trừ muỗi, muỗi Sài Gòn, thì đáng lẽ đi về nhà, tôi đã gặp L. và đã cùng anh thẳng tới tiệm hút này. Thế là tôi đã vô tình là người độc nhất xưa nay vào tiệm hút mà lại mang theo bột D.D.T. Là vì mặc dầu tiệm hút công cộng vẫn được tiếng là có nhiều rệp, những khách đến hút không bao giờ nghĩ đến việc đem thuốc trừ rệp để hộ thân. Người đi đến hút chỉ để hút, cho nên thuốc hút mới là phần chánh còn tất cả, kể cả rệp hút máu chỉ là phụ. Cũng có thể do cái tính dễ dãi lười biếng thụ động không muốn gây một phản động lực trước một sự khó chịu thường xuyên mà chúng ta vẫn thấy ở dân Phương Đông nói chung và ở dân nghiện nói riêng. Đó là thói quen. Với thời gian người ta sẽ quen với tất cả, kể cả cái nghiệp bị rệp đốt!
Tôi đã mở một kỷ nguyên mới cho tiệm hút bằng cách trừ rệp thẳng cánh chứ không để mặc chúng tự do hoành hành. Tôi đã gây một phong trào chống rệp bằng một giải pháp quốc tế. Tôi đã rắc lên khe gỗ, vào những ổ du kích bột thuốc D.D.T. Điều đáng buồn là hành động của tôi đã chỉ mang tính cách địa phương, vỏn vẹn trong một phạm vi chật hẹp chỗ chúng tôi nằm. Xung quanh tôi các dân nghiện đều giữa thái độ trung lập, họ còn mải mê với cái bàn đèn của họ và sẵn sàng từ chối mọi lời mời tới họp tại Băng Đung.
Bột D.D.T. rắc một loạt vừa xong…, và tôi lại nằm xuống yên trí từ đây sẽ được yên hưởng… hoà bình, không bị quấy rối bởi quân rệp phiến loạn. Anh bồi tiêm đã hút hết 2 ngao thuốc thết và chừng đã say ít hay nhiều, anh trở nên tỉnh táo, linh lợi, họat bát, có nhiều tình cảm, trọng nhân nghĩa và rất thuỷ chung. Một người hoàn toàn, một khi đã no thuốc phiện. Lẽ dĩ nhiên anh nghĩ đến sự cám ơn hai vị ân nhân của anh, hai vị đã khác với mọi người, khác với thường tình, đã ban cho anh những hai ngao thuốc ngoài số tiền “diêm thuốc” thường lệ. Hai ngao thuốc, không phải bỗng chốc mà ở trên trời rơi xuống được! Lưỡng họp, có ai ngờ đã từ trời rơi vào cái ống của ta! A ha! A ha!
Anh đã ngồi dẫy, uống một hụm nước và bằng cái giọng khặc khè, đặc biệt của thuốc sái, anh nói:
“Xin lỗi hai thầy, chứ cái thuốc phiện này nếu chỉ hút chơi thôi, thì hút mới còn thấy thơm ngon. Một khi đã mắc nghiện như cháu đây thì không còn biết ngon là gì nữa. Cũng như đến bữa là cứ phải ăn phải hút không còn cái say tơ mơ như ngày trước. Mà nếu lại túng thiếu như chúng cháu thì thật là khổ cực. Đói cơm còn chịu được chứ đói thuốc thì thực là một cực hình! Thiếu thuốc tất nhiên phải dùng thêm nhựa (sái). Nhưng nhựa ở đây không phải là thứ sái nhất thơm tho mà là một thứ hổ lốn gồm mấy loại nhất, nhì, ba, sái sảm, sái cháy. Thành ra hút nóng lắm, hại da, con người dễ bị tàn phá”.
Tôi bất giác nhìn ra xung quanh. Tất cả những dân nghiện trong cái tiệm này hầu như đang lần lượt hiện ra trên cuốn phim sa đọa để chứng minh lời phát ngôn của anh bồi tiêm.
Anh bồi nói tiếp:
“Có điều là ở đây dù sao cũng còn khá đấy. Khách hút lui tới đây đều thuộc hàng khá, trên mực bình dân lam lũ nên các thầy xem, tiệm này còn có phong thể. Những hạng du côn, lưu manh không dám bén mảng đến. Không phải tại chủ tiệm không bán lẻ lặt vặt, thu những số tiền con con của tụi này. Người Tầu được cái về điểm này không có phân biệt, họ vẫn có tiếng là nhẫn nại, có thể buôn bán thu từng đồng.
Tiệm này sở dĩ vẫn mang tính cách khá giả chỉ vì bọn lưu manh không muốn tới một tiệm nào mà phần đông là khách phong lưu.
“Vả lại” – anh hạ thấp giọng nói vừa chỉ một mâm hút phía góc tường cùng dẫy có người đàn ông da ngăm đen, bận đồ đen bên cạnh một người đàn bà trẻ tuổi cũng bận đồ đen – “vả lại có quan đại uý Bình Xuyên kia ngày nào cũng đến hút ở đây với bà đầm nên tụi lưu manh cũng sợ”.
Chẳng rõ lúc ấy có phải vì bị xúc động ngó nhìn vị quan bà Bình Xuyên kia không mà bỗng nhiên hai chúng tôi, L. và tôi, đã cùng rướn người lên lùa tay xuống lưng gãi lia lịa. Thì ra, quân phiến loạn rệp lại bắt đầu hoành hành, coi thường cả D.D.T.
Về việc trừ rệp trừ muỗi bằng những thuốc khoa học, từng đăng quảng cáo ầm ĩ, tôi đã có lần nghe một anh bạn phàn nàn:
“Láo toét hết cả. Chẳng ăn thua gì sốt. Bơm Phi-tốc cũng chẳng nước gì. Muỗi vẫn hoành hành như thường, dữ tợn và đông đảo quá chừng”.
Tôi đã bỗng nhiên nhớ đến lời phàn nàn của anh bạn là vì mình vừa rắc thuốc D.D.T. nổi tiếng là thuốc thánh trừ sâu bọ mà vẫn bị rệp đốt nhoi nhói. Tôi cho rằng có lẽ mình dùng thuốc D.D.T. không đúng thủ tục chăng?
Nghe đâu như phải có một viên phụ trách y tế chuyên môn đeo ống vào người, trông có vẻ chuyên môn và phiền toái bơm thuốc hay phun thuốc. Như vậy mới công hiệu. Ở đây, trong cái tiệm này, đáng lẽ mình cũng phải đeo ống phun mà phun mới phải, thì mình lại đi rắc như ta rắc hạt tiêu vào phở tái, hay rắc ân họa cho mọi người. Hèn nào mà rệp chẳng vẫn cứ sống. Cũng như ở nhà mình, phun thuốc “phi tốc” không công hiệu bởi vì đây không phải thứ muỗi thường vẫn dùng làm mẫu thí nghiệm trong tranh quảng cáo. Đây là thứ muỗi to lớn, khoẻ dai và đốt rất buốt, ấy là muỗi Sài Gòn, nổi tiếng trên khắp Việt Nam. Tôi còn nhớ buổi đầu sắm ống “phi tốc” về tôi đã yên trí từ đây mỗi buổi tối sẽ được yên bề muỗi để ngồi đọc sách yên ổn và viết văn, sẽ không bị muỗi đối nhói, chặn đứng dòng tư tưởng. Thì tôi đã thất vọng hoàn toàn. Vì ngòi “phi tốc” phun ra, phun một cách như chiến thắng hùng hổ, chỉ thấy 5, 3 chú muỗi ngã để rồi đâu lại đóng đấy muỗi vẫn cứ vo vo lăn xả vào da thị và đốt hoài. Tôi đành phải chịu hàng, không thể ngồi đọc sách biết văn mỗi khi lên đèn nữa. thì ra tụi muỗi đã thay đổi chiến lược, trước những tia độc phun ra. Chúng đã hết lớp này có ngay lớp khác, rất nhiều lớp khác. Chúng đã áp dụng chiến thuật… làn sóng người và bể người.
Trở lại vấn đề rệp tại tiệm Lacaze. Thấy thuốc D.D.T. không ăn thua gì, tôi liền nghĩ mẹo thông thường và giản dị và nếu có phải đặt tên mẹo ấy bằng mấy chữ hoa đầu (intiiales) cho có vẻ một phát minh sáng chế, thì tôi xin ghi hai chữ T.B. Tôi giải 2 tờ nhật trình, 1 cho tôi, 1 cho L. giải rộng cả 2 mặt rồi nằm cả người lên trên. Giấy nhật trình tuy mỏng nhưng không có lỗ thông, hở như vải lụa, rệp không thể đốt xuyên qua được. Vả lại không như muỗi có cánh bay lung tung; rệp thường giữ nguyên vị trí để tìm cơ hội.
Và như vậy chúng tôi được yên ổn suốt trong thời gian nằm tiệm. Nếu phải khoa học hoá lối trừ rệp thì T.B. thực là giản dị, không phải để ghi những formules hoá học hay lý học rắc rối. Vì T.B. chỉ là… tờ báo (một sáng kiến con con bên cạnh bàn đèn).
Chúng tôi đang nằm yên lặng trên hai tờ báo thì, đốp đốp huỵch huỵch, tiếng đấm đá kèm theo những tiếng chửi thô tục, rất cu ly làm cho cả tiệm nhốn nháo, các khách hút đều ngồi nhỏm dậy nhìn về phía có tiếng đánh nhau và chửi rủa.
Người đang nhận những quả đấm, cái tát, khẳng chân cùng những lời chửi cu ly kia mà chỉ dám phân trần yếu ớt như: “Tôi có nói gì đâu”, hoặc “Bà cứ đưa tiền đấy chứ”, một cách khúm núm và thụ động. Và người đấm đá tát chửi chính là viên quan ba Bình Xuyên bận đồ đen vừa rồi. Trước khi thôi hành hạ người kia, y còn ném một tràng câu đe doạ và thẳng chân đạp cả một chân giầy da vào sường đối phương. Người chủ tiệm lúc ấy đã phải ra xin lỗi viên võ quan B.X.
Mấy người xúm quanh đấy đều xỉa xói nạn nhân cho là hỗn láo, mà không cần biết duyên do câu chuyện và anh ta có thực hỗn láo không. Thành ra, trước sức mạnh phũ phàng, trước thế lực mà chính chủ tiệm, khách hút đều vào hùa, người bị đánh thấy mình nhỏ bé quá và lâm vào cảnh thế cô hoàn toàn.
Khi sự kiện đã chấm rứt và mọi người đã trở về cái bàn đèn của họ, kể cả viên võ quan bận đồ đen, người bị đánh chửi vừa rồi mới tiến lại trước võ quan, khúm núm xin lỗi và phân trần:
“Thưa Ngài, con có dám hỗn xược đâu. Quả là bà cứ đưa tiền cho con đi mua”.
Võ quan, lúc bấy giờ trở nên ôn tồn rộng lượng không ngờ, dõng dạc nói:
“Bận sau, bay cứ hỏi tiền tao nghe! Sai đi mua cái gì thì chỉ biết kêu tao thôi nghe!”
Nạn nhân chỉ dạ dạ hoài, trong khi ở phía bàn đèn đối diện với võ quan, người đàn bà là xuất xứ cuộc đám đá chết người vẫn nằm lặng thinh không nói gì!
Tôi hỏi nguyên do câu chuyện, anh bồi tiêm của chúng tôi lúc ấy cũng đã nằm xuống. Anh đã tỏ ra – như mọi đồng nghiệp bồi tiêm – rất am hiểu truyện gần như bằng trực giác và sáng suốt minh mẫn hơn ai hết. Song anh cũng mắc cái bệnh thông thường của người đời là phù thịnh, bợ đỡ kẻ quyền thế. Anh đã trả lời tôi gián tiếp bằng cách mạt sát người bị đòn:
“Ồ, làm bồi tiêm – vì người bị đánh vừa rồi chính là một bồi tiêm – làm bồi tiêm mà lại không tỉnh. Bà đầm sai mua đồ ăn, lại không hỏi tiền ông dám hỏi thẳng bà. Chết là phải lắm!”
Không khí trong tiệm đã trở nên oi ả. Nhân số mặc dầu chỉ gồm dân nghiện ít sinh lực, đã đông nghịt, nằm kín 2 bên bục gỗ, khiến cho những khách vào sau khó tìm được chỗ hở để cho đặt bàn đèn. Nhân số đó đã nguyện cùng với khói hút. Một thứ hơi nồng nặc đã toát ra từ mồ hôi, từ nhớt nhát của da thịt ít tắm, từ những tầng ghét tính luỹ trên gối nằm và gối tựa đặc biệt của những tiệm hút.
Vừa lúc ấy từ phía trong nhà, có tiếng nước dội ào ào, từng hồi dồi dào và mạnh mẽ. Im lặng mấy phút rồi lại ào ào từng hồi dồi dào vào mạnh mẽ. Chỉ một ấn tượng nước đổ tia ra tung tóe cũng đủ đem lại cảm giác êm mát dễ chịu cho khách nằm bên cạnh ngọn đèn và chất thuốc nóng quyên với hơi người, mặc dầu chỉ là thứ hơi người nguội.
Tôi hỏi anh bồi tiêm:
“Nước gì thế hả anh?”
Anh bồi tiêm chưa hiểu câu tôi hỏi:
“Dạ, thầy hỏi nước nào ạ?”
“ Nước đang dội trong nhà đó”.
Anh bồi bèn giải thích giọng vẫn khặc khè tuy rằng anh sắp nói chuyện về nước mát:
“À! Đó là nước tắm. Khách hút ở đây nếu muốn tắm có thể ra đằng sau dội nước tha hồ”.
Tôi tự nhiên phê bình bâng quơ:
“Ở đây chủ tiệm tổ chức kể cũng chu đáo. Người Tầu họ tài về cách giữ khách.
Lúc bấy giờ thì anh bồi đã có đủ đà nói nên anh cứ nói, không cần phải để ai hỏi nữa. Có điều là anh nói gióng một, câu nói bị gián đọan chốc chốc nhưng vẫn có mạch lạc, qua cái giọng vẫn khặc khè:
“Tại các tiệm Tầu, người hút có thể ngủ lại đến sáng được, như là ở nhà riêng mình vậy. Người Tầu họ giữ được khách bằng cách thức dễ dàng và xuề xoà. Ở đây có đủ mọi sự thuận tiện, nhà tiêu, buồng tắm. Và rất tự do, không ai xen vào đời sống của mình một khi có đủ tiền để hút đều đều”.
Tôi ngắt lời anh:
“Thế ngộ mình hết tiền, họ có cho chịu không?”
Anh cười nhạt:
“Dạ! Cái đó thì cũng được. Đúng lý ra thì khi thầy dô kêu mâm hút là họ hỏi ngay thầy cần mấy ngao. Và khi trao thuốc, là họ hỏi tiền ngay. Nhưng nếu thầy là khách hút quen và vẫn được tiếng là đứng đắn sòng phẳng thì dù có thiếu ít nhiều họ cũng vui lòng cho chịu. Tôi đã nói họ dễ dãi xuề xoà và rất bình dân. Cho nên đã có những khách hút quen thuộc hàng mấy năm, không đi tiệm nào khác nữa. Có khác hút coi tiệm như nhà riêng của mình. Họ sắp đặt chỗ mắc quần áo, họ tìm nơi dấu cái quạt nan để khi đêm tối cần lại moi ra. Họ là những khách im lặng sống riêng biệt, với cái mâm hút hợp với tính tình những chủ tiệm người Tầu; là những người sang Việt Nam chỉ biết có việc làm ăn cần cù ít muốn sinh chuyện. Vả lại, như thầy đã nhận thấy, những chủ tiệm cũng như những người phục dịch trong tiệm cũng đều là… dân nghiện”.
Đến đây, thấy bước vào một ông Tầu bận đồ đen, người khẳng kheo. Anh ta miệng thì ê a như rao bán một thứ hàng gì, mắt thi đảo sang hai bên dẫy khách nằm hút như mời mọc.
Anh bồi tiêm liền ngắt câu chuyện nói:
“Dạ thầy sơi óc đậu, tầu phở mát lắm”.
Tôi gật đầu và bảo kêu 3 chén (bát).
Anh bồi liền ê a bằng tiếng Tầu tức thì anh bán hàng lại ê a nhắc lại. Rồi anh bồi nói:
“Dạ thưa thầy, cái nghiệp thuốc phiện vẫn nóng lắm. Cho nên cứ phải hãm bằng chè hay bằng thứ mát, chè sen, lục tầu sá, chè đậu đen, tầu phở”.
Ba bát tầu phở đã lần lượt bưng vào, anh tầu phở vui vẻ mời khách, để trơ bộ răng bẩn thỉu đầy bựa.
Anh bồi tiêm – chắc chắn cũng là tay giang hồ từng trải – nên khi thấy tôi nhìn trừng trừng bộ răng anh tầu phở, anh đã cho ra một thứ triết lý rất thực tiễn:
“Thầy tính cái gì ở đời cũng là trái ngược cả! Người Tầu có tiếng khắp hoàn cầu khen là nấu đồ ăn ngon…”
Nghe một câu lý thú, tôi liền châm một điếu thuốc lá Cotab hút. Khói toả ra xung quanh, tôi suy nghĩ trong cái khoái cảm của vị thuốc lá thơm sợi vàng:
“Thuốc Cotab của thực dân! Người ta không ưa thực dân nhưng người ta vẫn cứ thích Cotab cũng như nói rộng ra, người “đầm” thực dân đẹp như tiên thì bụng thực dân lại xấu như ma.
Cho nên thực dân đã chinh phục bằng Cotab và dựng kế mỹ nhân, nếu cần để trị vì và tồn tại”.
Thấy tôi im lặng, lại sợ tẩu phở nguội thì uổng, anh bồi tiêm liền nhắc:
“Dạ, mời thầy xơi”.
Tôi liền lấy tay lay L. lúc ấy vẫn nằm thẳng cảng. L. liền choàng dậy, hất hàm như hỏi cái gì. Tôi nói:
“Anh dậy xơi tầu phở”.
L. liền lắc đầu để lại nằm dí xuống.
Thấy L. không dùng, tôi liền cầm một bát lên môi bảo anh bồi:
“Tôi dùng một thôi, còn hai bát cho anh cả”.
Anh bồi sung sướng nhận món quà mát cũng bỗng nhiên từ trời rơi xuống:
Nằm trong tiệm này kể đã lâu rồi, tôi liền hỏi anh bồi tiêm:
“Nghe thấy nói có lệ chỉ được nằm tới lúc phao dầu cạn thôi. Thế mà vừa rồi anh lại bảo có thể ngủ lại đêm được. Thế là nghĩa thế nào?”
Anh bồi tiêm liền thả trề cái môi xuống, hàm răng vàng khè, tạo nên một cái cười nhạt phèo. Câu trả lời của anh cũng không có mạch lạc:
“Dạ, chính ra thì như thế đấy nhưng người Tầu được cái họ cũng dễ dãi. Rồi thì thế nào cũng được”.
Đối với hai chúng tôi, kể ra thì đã cạn hai phao dầu mà đêm đã khuya, mấy dân nghiện xung quanh đã tự sắp đặt chỗ nằm để theo đuổi sự nghiệp cho đến sáng.
Tôi nghĩ rằng chương trình hành động đêm nay còn một vài khoản chưa xong bề nào, nên đã tính bài tháo lui. Tôi bèn lay anh L. dậy. Anh ngồi thẳng ngay lên, rất tỉnh táo. Vừa vươn vai, anh vừa nói, cười xoà:
“Chắc anh chàng nóng ruột xuống thăm vườn lài…”
Rồi trong khi chờ chủ tiệm thối tiền, anh khẽ ngâm câu sau đây, bằng một giọng đặc tuồng:
Chẳng thơm cũng thể hoa nhài
Chẳng lịch sự cũng con người Tràng An.
Tôi đã trả tiền xong, theo anh L, cùng ra cửa. Nhận món tiền puốc-boa kha khá, anh bồi tiêm đã như muốn tỏ tình khứ lưu:
“Dạ, lần sau hai thầy lại đến đây hút. Tiệm này sạch sẽ lịch sự hơn cả. Nếu thầy sang tiệm 8… cách đây mấy nhà thì không chịu được đâu”.
Tôi nhìn anh như có ý hỏi tại sao, thản nhiên vậy thôi nhưng đã được anh giải thích rất ân cần:
“Dạ, bên ấy chỉ có tụi lưu manh, cà lơ. Nhộn lắm!”
Tôi đã gật đầu một cách máy móc và thoát ly cái thế giới ám khói và thiếu ánh sáng nặng nề và khét khét để ra ngoài không khoáng mát dịu của đêm Sài Gòn.
Nguồn: Những thiên đường lỡ. Phóng sự của Triều Đẩu. Họa sĩ Phạm Tăng trình bày bìa. In xong ngày 30.11.1957 tại nhà in Phan Thanh Giản, 21 Võ Tánh, Sài Gòn. Giấy phép số 1.417 – X.b. ngày 2.9.1957 do Nha Thông tin Nam Việt cấp. Tựa của Bùi Xuân Uyên. Nhà xuất bản Tấn Quảng Lợi. Bản điện tử do talawas thực hiện.
3
Kể về tiệm hút công khai thì tiệm nào ở đây cũng đều được tổ chức như nhau, có những ước lệ, lề thói như nhau, vì đều có một thứ khách hàng: người nghiện. Cho nên hai yếu tố chủ động: tiệm hút và khách hàng vốn có mối tương quan mật thiết. Có thể rằng tiệm hút lệ thuộc khách hàng. Vẫn có cái dấu hiện riêng để phân biệt tiệm hút thuộc loại nào, loại sang hay loại bình dân, loại trung bình hay mạt hạng. Thường thường thì các tiệm cũng chỉ chia làm mấy loại thôi, mặc dầu số tiệm hút hiện nay tại Sài Gòn – Chợ Lớn phải tính với con số vạn tức là trên dưới 10 ngàn!
Các dấu hiệu phân biệt nói trên đây là cái sắc thái của tiệm, tất cả cái quang cảnh đại cương hiện ra khi ta bước qua ngưỡng cửa. Dựa theo dấu hiệu này, thì tiệm 1… Lacaze thuộc vào loại trung bình không dơ bẩn, luộm thuộm như tiệm 8… cùng phố. Nhưng nó chưa tới mực sạch sẽ gọn gàng dễ coi do một tổ chức chu đáo hơn. Vì tiệm hút ở đây cũng như mọi tổ chức hành chánh hoặc kinh tế, xã hội hay nghệ thuật rút cục chỉ là vấn đề nhân sự. Người có khá thì công cuộc mới tiến hành và phát triển. Trái lại, người hỏng thì công cuộc nhất định chỉ có giật lùi và thất bại. Cho nên tại số nhà X… đường Đồng Khánh, chúng ta đã thấy một tiệm hút sáng sủa, sạch sẽ, các bục gỗ được lau bóng nhoáng ánh đèn đủ sáng và những anh bồi tiêm ân cần và lễ phép.
Lối đi giữa hai dẫy bục gỗ đặt mâm hút lúc nào cũng được quét dọn sạch sẽ. Những ống nhổ sứ được rửa và thay đều không thành những thứ rác rếch như tại tiệm I… Lacaze hay ghê tởm như tiệm 8… cùng phố.
Chỉ vì chủ tiệm đường Đồng Khánh này là người lanh lợi, lịch sự, không có vẻ Tầu. Đó là một người tráng kiện, tóc húi bốc, nước da hồng hào chứ không tái mét như mọi chủ tiệm. Tưởng chỉ một đặc điểm này cũng đủ để liệt tiệm X… vào loại số 1 rồi. Tại đây, khách hút không đông đảo như tiệm I…
Mặc dầu lớn nhỏ, tèm nhèm hay lịch sự, giá thuốc ở tất cả các tiệm đều như nhau. Ngao 10 đồng, ngao 20 đồng và nhựa thì 1 đồng mỗi viên cấu nhỏ bằng viên hạt tiêu. Và tiệm 8… đường Lacaze đã chỉ tiếp nhận một hạng khách hút bẩn thỉu, ghét cáu, khẳng kheo và lam lũ gồm những phu đạp xích lô, phu khuân vác trong đó trà trộn tụi lưu manh thất giáo.
Lẽ dĩ nhiên “thực đơn” của tụi này cũng nghèo nàn. Và nếu bên cạnh một mâm hút đã có những khách kê tới 4, 5 trăm bạc thuốc một lần hút, thì ở tiệm nghèo nàn này, đã có những khách hàng hút mỗi bữa chỉ sài 5$ thuốc cộng 3$ nhựa (sái). Và có khi để được dặm đủ say, người ta kêu 5$ thuốc với 10$ sái!
Trong khi ấy tại tiệm X… đường Đồng Khánh, trên bục gỗ nhẵn bóng, bên cạnh những khách nghiện Việt Nam người ta thấy một khách hút người da trắng, phốp pháp có vẻ là người Tây, nằm dài, cởi trần đang giơ ngang ống, một tay tiêm thoăn thoắt. Tây nghiện tiêm lấy, thực quả lần đầu tiên, tôi mới chứng kiến cảnh… bi hài này.
Người Tây vừa tiêm vừa liếc nhìn tôi có vẻ nghi kỵ. Có lẽ vì y thấy tôi ngắm nhìn y kỹ quá. Y cởi trần, mặc chiếc quần len mầu sám để lộ một thân hình mập, nhiều mỡ, bũng lùng nhùng. Y đã theo thói quen ở tiệm là phải được hoàn toàn dễ chịu đến lỗ mãng, phần vì còn có việc chỉ phải đi không tiện nằm lâu, cho nên y còn để nguyên chiếc quần dài.
Vì nếu là dân nghiện biết thực hiện đến nơi đến chốn ý niệm dễ chịu, thì người ta đã đi bài quần đùi hay si-líp. Người Tây đã tiêm xong điếu thuốc liền quay đầu dọc tẩu vào miệng hút một cách rất thạo. Ro ro thì vẫn ro ro đều nhưng khói không thấy thả ra một cách phí phạm. Khi y ngửng cái đầu lên để chiêu ngụm nước thì khói trong miệng đã theo nước mà bí mật đi vào trong người.
Tôi thấy cứ như vậy anh hút liền chừng một chục điếu, anh liền hạ dọc tẩu đặt xuống bục gỗ ngả lưng nằm ngửa một cách rất thoải mái, khoan khoái, mắt lim dim, hai tay đặt trên ngực, mê ly. Xứ sở Việt Nam quả là Đất Hứa trong kinh Thánh.
Người Tây này nhất định phải sinh tử với đất này, để rồi phải làm bất cứ sự gì dù bẩn thỉu để bảo vệ Đất Hứa. Cứ trông cái vẻ mặt tầm thường ti tiện, cái mẽ người hạ cấp của y, ta có thể đoán y có thể lãnh để thi hành những công tác… sát nhơn, nếu cần, để giữ lấy Đất Hứa.
Tôi lại nằm bên cạnh y, kêu một mâm hút. Thấy có người và tiếng động y liền mở mắt nhìn. Tôi liền mỉm cười gật đầu chào một cách rất xã giao. Y không động tĩnh vẫn cứ nhìn tôi. Tôi liền gợi chuyện bằng tiếng Pháp:
“Chà! Thời buổi khó khăn! Anh bạn già của tôi ơi. Đến bao giờ chúng ta mới được dễ thở?”
Câu nói bâng quơ này không ngờ đã gây một đòn cân não đánh đúng vào tâm lý người Tây đang có một tâm sự bực dọc chờ dịp là thổ lộ và tung ra. Y chồm lên:
“Khó khăn mà thôi ư? Rồi còn đen tối nữa cơ. Chúng tôi sẽ bị thải hồi một loạt. (Y ngừng một giây rồi thêm:) Lẽ dĩ nhiên là sẽ có phụ cấp thải hồi”.
Y đã ngồi dậy, bĩu môi nhún vai nói tiếp:
“Nhưng vẫn là thành thất nghiệp”.
Qua mấy lời y thốt ra như một mối uất hận, tôi đã nhìn thoáng sự trạng của y. Vừa chìa bao thuốc lá mời y hút tôi vừa gợi thêm chi tiết:
“Anh sinh trưởng ở đây ư?”
Y trả lời lưu loát và ôn tồn:
“Tôi sinh trưởng ở đây. Từ bé đến lớn tôi đều ở đây. Tôi biết cả Đô Thành này, tất cả hang củng ngõ hẻm, tất cả nhân vật, tất cả mặt phải lẫn mặt trái của Sài Gòn – Chợ Lớn”.
Y hút mạnh một hơi thuốc lá thả một luồng khói dài bật bật cái môi coi bộ khổ hạnh. Rồi anh nói tiếp:
“Và còn tiền thuốc phiện của ông Ba Tầu này, ai sẽ trả cho tôi? Bây giờ mà đã phải giảm thuốc hút thì còn gì khó chịu cho bằng! Ngày trước, mỗi bữa năm ngao. Từ hôm qua rút xuống có hai. Thuốc phiện anh đã biết chỉ có lên thôi, có lên mới thấy khoan khoái. Đằng này lại giảm đi thì thật cực. Chao ôi, thời oanh liệt còn đâu?”
Tôi đã không ngờ có dịp may là thết anh hai ngao thuốc, anh ta cảm ơn nhiệt liệt, lấy kéo sửa lại ngọn đèn và không quên kêu chủ tiệm (lần này thì bằng tiếng Việt rất sõi) đổ thêm dầu lạc vào bầu.
Anh ta vừa nằm xuống bên cạnh, thì có 2 người lai vẻ lưu manh và hạ cấp đi vào kiếm anh chừng muốn xin hút trạc, Nhưng anh đã xua như xua ruồi, miệng cho ra một tràng tiếng Pháp:
“Ta rất tiếc. Ta cạn túi hôm nay”.
Với những điệu bộ rất thô bỉ, bọn kia lui ra.
A! Đất Hứa! Ở đây ảnh hưởng của người Tây quả đã bao trùm sâu rộng.
Nó tràn lan ngoài đường trên mặt những tụi lai căng lũ trẻ mắt xanh tóc vàng mà nói tiếng Việt, trên những biển tên đường phố, những biển hàng, trong gia đình xen vào tên người, tên họ, qua những cuộc chơi công cộng của người Pháp mà lại địa phương như lối chơi boules. Đồng thời, tính tình người bản xứ cũng chịu ảnh hưởng, người thượng lưu, người bình dân ông Hội Đồng, ông Đốc Phủ đã nói tiếng Pháp thạo hơn tiếng Việt và anh Ba vào tiệm ăn đã chỉ biết dùng cơm đặt trong đĩa lớn và lấy đồ ăn bằng phua-xét (nĩa) chứ không bằng đũa. Bữa ăn lót dạ anh Tám X, đã ngán xôi cháo để thưởng thức phó-mát với bánh mì.
Vật chất vốn chi phối tinh thần, ở cái Đất Hứa mà cái gì cũng đượm màu chính trị. Thực dân đã nghiện hút và biết tiêm thuốc lấy, đã lưu manh và thất nghiệp, tinh thần thực dân quả đã ghê gớm và chính trị thực dân đã là một cái nhọt bọc thấm độc và giết người.
Pê-tô –tên anh ta – đã hút xong gọn hai ngao thuốc mà xem chừng vẫn còn thòm thèm. Anh đặt ống hút xuống mà còn tiếc nhớ. Cho đến lúc người làm trong tiệm lại thu ống và vỏ ngao về, anh mới chịu thôi, với điếu thuốc lá bên tôi, chậm rãi đưa lên đèn châm hút, thả luồng khói dài.
Lúc ấy vào khoảng 7 giờ chiều tranh tối tranh sáng.
Đó là lúc mà công việc sinh nhai được tạm ngừng và người ta đã có thì giờ rỗi rãi tìm đến tiệm hút. Tiệm đã trở nên ồn ào nhộn nhịp tấp nập. Ro ro từng hồi chập nhau cùng một lúc hay nối tiếp nhau và khói trắng bệch đã toả ra sặc sụa mù tịt cả căn tiệm.
Pê-tô nằm dí trên sàn gỗ trà trộn với đám đông Việt, Hoa, chàng y như ở ngoài cuộc sống thường ngày công khai…
Trong một đọan trên tôi đã có dịp nhắc tới tiệm số 8… đường Lacaze, là một tiệm dưới mực trung bình, hạng bét. Hôm nay tôi cần phải trở lại tiệm đó, vì đây là một hình thức cuối cùng của tiệm hút công khai, tiếp nhận những khách hút nghèo nàn, ít tiền mà lại nghiện nặng, gần như lâm vào bước đường cùng của nghiện hút sa đọa tới hình thức sa đọa nhất, và xuống nước tới mức tuyệt vọng nhất.
Nếu phương pháp khoa học là chia và phân loại, thì theo phương pháp đó tôi đã chia những tiệm hút làm 3 loại phong lưu mà mẫu hàng là tiệm X… đường Đồng-Khành, trung bình là tiệm I… đường Lacaze là tượng trưng và mạt hạng mà đại diện là tiệm 8… đường Lacaze này. Ngoài ra rất có thể có những nhà riêng có 1, 2 bàn đèn, tiếp nhận một số khách nho nhỏ, quen thuộc. Khi sang khi nghèo không nhất định, và như vậy không tiện xếp vào thiên phóng sự này. Sau cái “mũ” chụp ngọn đèn, chúng ta trở lại tiệm số 8…
Chà! Anh X. sao mà xuống nước thế! Ngày nào còn ở Hà Nội, anh còn là một phong lưu mã thượng, con một lại nhà giầu, lại đẹp giai nữa. Ngày ấy phong trào ca kịch đang thịnh hành, một kép hay một đào đã làm vua hay làm hoàng hậu trên sân khấu, mỗi khi ánh mặt trời tắt thay thế bằng ánh đèn điện nên về phần đời còn được hưởng mặc dầu giả tạo cái dư hương của vinh quang. Anh X. đã chịu cái ảnh hưởng của dư hương sân khấu đó nên anh đã thoát ly gia đình, bỏ lại tất cả những quyền lợi vật chất trong gia đình và ngoài xã hội để theo một gánh hát cải lương nổi tiếng ngày ấy. Song điều đáng tiếc là tài anh không đóng kịch được và giọng hát là điều kiện cần thiết thì anh cũng lại không có. Anh chỉ có tấm lòng hâm mộ và có thể nếu cần… hy sinh. Thực ra anh đã hy sinh rồi đó, hy sinh cả sự nghiệp và gia đình. Chủ gánh hát, chạnh lòng vì lòng nghĩa hiệp của ông tướng Quảng Lạc, đã vui lòng thâu nhận anh làm một nhân viên giúp việc gánh hát. Anh X. được phụ trách việc viết các tờ quảng cáo, xếp đặt các tin ca kịch, trưng một vài đào kép có giọng ca mùi, v.v. Anh sẽ cho in hàng nghìn hàng vạn tờ quảng cáo, phát tới mọi nhà, trong các đường phố, khắp các hang cùng ngõ hẻm. Rồi thì tối đến, khi màn kéo lên, cuộc sống vinh hoa vàng son được diễn ra với ảo mộng, anh trông nom việc bài trí sắp phông và kéo màn.
Để cho được chu đáo, anh phải phụ trách những “say-nét” (sen nhỏ) khôi hài, pha trò:
“Tôi là con mèo, meo-meo-meo. Đời tôi đã từng bắt chim năm ba chú chuột chí chí chí”.
Ấy có thế, anh bắt chước con mèo con chuột, mua vui cho khán giả, sau khi họ đã chứng kiến việc con giết cha nuôi, Lã Bố vác kích đâm chết Đổng Trác, và Thôi Tử thí Tề Quân. Meo meo meo chí chí chí. Ngày nào ở Bắc Việt, người anh em còn phong vận lắm. Da dẻ còn hồng hào trông người còn nhuận sắc. Thế mà vào đây, ở trong tiệm 8... đường Lacaze này, chen chúc giữa đám khách hút điêu tàn, xanh sao và khẳng kheo tôi đã chỉ thấy một anh X. tụt xuống dốc đến tận đất đen. Cứ một sự thấy anh nằm tiệm này cũng đủ tỏ anh ít tiền phải hút sái; ở đây người ta chỉ dùng sái, có mua ít thuốc không thì chỉ để “bao” gọi là thôi cũng như anh ngào phải gậm xương, mà xương thì chỉ có lòng thòng một ít thịt nạc, đủ để đánh lừa ta, để khỏi khổ vì thấy mình chỉ gậm xương, chỉ có hút sái!
Trông thấy anh tôi thấy có bổn phận phải chìa bao thuốc lá Cotab. Và tôi biết hiện nay anh không có đủ tiền mua thuốc lá thơm mà anh thì vẫn thích hút thuốc lá loại ấy.
Tôi đưa anh hút một điếu, và trao liền cho anh mấy điếu để dự trữ. Tôi cũng hiểu tâm lý người nghiện thuốc lá bao giờ cũng muốn có một số thuốc lá dự trữ, dẫu rằng chỉ là 2 điếu thôi.
Nhận thuốc rồi anh cảm ơn nhưng còn kêu: anh Triều Đẩu?
Tôi hất hàm hỏi gì, X… nói tiếp:
“Anh cho tôi 10 đồng”.
Tôi móc ví lấy tiền đưa anh.
Anh chỉ sẽ sàng cảm ơn. Ý chừng lúc ấy thiếu thuốc hút, anh cũng như hết sinh lực. Chà! Một tranh thanh niên đáng lẽ tuấn tú đầy hy vọng đầy tương lai, mà vì ngập vào cái bàn đèn nên đã như sống trong cõi chết. Hy vọng và tương lai đều tan ra khói. Thân thể đã bị thiêu đốt trên ngọn đèn dầu lạc thì ngày nay nếu có những lúc hối hận và tiếc than, tay vắt lên trán ôn lại quá khứ và nhắm mắt nhìn tương lai mịt mù, anh có cất lên tiếng thở dài hay bật lên lời sám hối thì ro, ro, ro tiếng nhạc muôn đời của Sa Tăng đã đánh át đi ngay mất rồi. Chao ôi! Biết làm sao được! Tôi đành để yên anh với cái mâm hút của anh, với số phận anh. Tôi toan tiến sâu vào trong cùng tiệm để khám phá một sự gì mới lạ hơn nữa, trong cái kiếp sa đọa nhất của dân nghiện thì gặp một người nhỏm dậy, chìa tay ra bắt.
Tôi nhìn kỹ xem ai, và vội thốt lên:
“A! Anh Y. Từ ngày vào đây bây giờ mới gặp anh”.
Y. thản nhiên trả lời:
“Mà lại gặp nhau ở chỗ này!”
Y. là một thi sĩ.
Thơ anh không có gì xuất sắc, song ngày nào còn ở Bắc gặp đủ thiên thời, địa lợi, nhân hoà, anh đã cho xuất bản được một vài cuốn văn vần, tả tình xuân hạ thu đông và ca ngợi mây, nước, gió, trăng. Một chút tiếng tăm trong giới văn nghệ như vậy đã giúp anh kiếm cách sanh nhai và ăn hút đều đều trong cuộc đời thực tế. Nhiều khi người ta phải thán phục tài xoay xở tháo vát của anh.
Một người vợ trẻ đẹp, một đàn con kèm theo đứa ở đàng hoàng và một bàn đèn, lửa thiêng tỏ suốt ngày đêm, từng ấy thứ rườm rà, phiền toát nặng nề và đắt đỏ, anh gây dựng và đặt vững trên một thực tại mong manh và giản dị, nhẹ nhàng và rẻ giá vẫn đời đời mệnh danh là thơ thơ. Có gì đâu. Anh vốn là một nhà tâm lý thực tiễn đã thức những đêm trắng bên cạnh bàn đèn, cái giang sơn rút nhỏ lại của anh. Anh đã nghĩ ra những chước, những thuật để làm tiền. Đây là một thí dụ: Thường thường, anh có trong túi một số giấy phép mở báo hoặc đứng tên anh, hoặc đội tên người khác. Báo ấy sẽ chỉ ra những số đặc biệt ca tụng và trưng ảnh một nhân vật hay một số nhân vật thời cuộc có thế lực trong chánh giới. Báo sẽ in một số tờ nhất định đủ để biếu những nhân vật được ca tụng mà không cần bán cho công chúng. Là vì ông chủ báo đã tiếp nhận bí mật những món tiền lớn của những nhân vật được ca tụng kia rồi. Mỗi năm anh chỉ cần làm 2, 3 lần như thế là đủ sống đuỳnh huỳnh suốt 12 tháng của đất trời.
Tôi vẫn biết cái “tuýnh” của anh như vậy, nên khi gặp anh ở tiệm 8… đường Lacaze tôi đã hỏi anh câu sau đây tưởng chỉ là hàn huyên xã giao nhưng vô tình đã mang một hậu ý:
“Thế nào? Anh vào đây đã bắt đầu làm gì chưa?”
Hậu ý của tôi là muốn biết anh đã tiếp tục tục làm công cuộc bịp bợm chưa. Cho nên tôi đã nói tiếp ngay, chưa kịp nghe câu anh trả lời:
“Đất này xem chừng kiếm ăn cũng dễ…”
Con người bẩm sinh vốn chủ quan đã không chịu cho mình là bịp bợm khi cả cái xã hội xung quanh đều công nhận mình là như vậy! Cho nên anh đã trả lời tôi đầy vẻ tự cao:
“Vâng! Tôi vẫn theo đuổi chủ trương phục vụ nhân dân như ngày còn ở ngoài Bắc”.
Câu chuyện trên đây đã được trao đổi trong một tiệm nghèo nàn và khổ hạnh. Có lẽ lúc ấy anh Y. mới “dô” chưa kịp thi hành những kế họach xoay tiền nhà nghề nên anh đã thực sự sống với quần chúng, cái quần chúng nghiện ngập và kiết cú. Song chỉ mấy tháng sau đấy thôi, tôi đã lại gặp anh trong một tiệm lớn đàng hoàng tại Guynemer, Chợ cũ. Chắc chắn anh đã thành công rồi vì tại đất này anh có thể đã mở rộng phạm vi họat động ngoài khuôn khổ chật hẹp một cá nhận một thế lực hay một “bự” để len lỏi vào những cơ quan quân sự hoặc hành chánh trước tác thuê những sách tuyên truyền hoặc đượm mầu văn nghệ dân tộc và đại chúng v.v.
Có điều đáng buồn là giờ đây thuốc phiện đã in dấu vết tàn phá trên gương mặt anh, biến một trang thi sĩ khôi ngô, tuấn tú thành một kẻ mưu sinh da sạm đen với nhiều vết nhăn. Mắt bớt sáng và tinh thần sa sút. Thực ra anh cũng có tài. Nếu phải đi vào con đường bịp bợm và phải dùng cái bàn đèn để trợ lực cho sự bịp bợm đó, lỗi ấy nhất định không phải tại anh. Cũng không phải tại người vợ trẻ đẹp của anh hay đàn con thiên thần cùng bầy tôi tớ chất phác. Cũng nhất định không phải tại cái bàn đèn mặc dầu trong rất nhiều trường hợp tương tự, cái bàn đèn vẫn là cái bung xung kiến cho trăm tội đều đổ lên đầu nhà oản, lên ngọn đèn dầu lạc.
Lỗi chỉ tại các thực thể thế lực và quyền hành bao trùm tất cả, có trách nhiệm về hành động của tất cả và có tham vọng mưu hạnh phúc cho tất cả. Đó là cái thực thể lý tưởng vì cũng có cái thực thể giả tạo, tuỳ theo hoàn cảnh và xã hội của khối người đương thời sống trong sự chi phối của thực thể đó. Song dẫu lý tưởng hay giả tạo, cái thực thể ấy vẫn được mệnh danh dưới cái tên nôm na: Nhà Nước.
Vậy thì, sau cái bắt tay thân mật thường có giữa đôi bạn văn nghệ sĩ, tôi ngồi đối diện anh Y. Anh vốn là con người lịch sự, nên đã ngồi tiếp chuyện tôi và chỉ ngả nằm khi nào điếu thuốc tiêm đã xong, người bồi tiêm đã giơ ngang dọc tẩu về phía anh mời hút. Anh nằm và ngồi 2, 3 lần như thế.
Đến điếu thuốc thứ tư thì có lẽ vì mệt mỏi hay vì ngại sự cử động luôn luôn bất tiện anh đã phải áp dụng hoàn toàn cái kiểu cổ điển của dân nghiện là nằm nghiêng hẳn, đầu gối cao vừa hút vừa tiếp chuyện mặc dầu vì nằm dài hoài mà có thể bị … bẹp tai! Ro ro từ bàn đèn anh. Ro ro từ các bàn đèn xung quanh anh. Và từ khắp tất cả, luồng khói trắng và khét đã toả ra u uất cả căn tiệm rộng. Tôi suy nghĩ một mình:
“Nhà nước kia mới là thủ phạm sự sa đọa của thi sĩ. Không kể những hình thức nhà nước giả tạo thời đô hộ trong đó con người kể cả văn nghệ sĩ đã chỉ là những cán bộ tay sai để duy trì và phát triển cuộc đô hộ, và đồng thời những tụi bất tài đức thiểu đã xông ra lợi dụng và đầu cơ một cách trâng tráo vô liêm sỉ. Họ là chủ nhiệm tờ Chánh Đạo để nhẩy tót vào Hội Đồng Quốc Gia Lâm Thời (!). Họ ra những tờ báo ma, sống vẻn vẹn chỉ qua một số đặc san Nói Thật để lấy quảng cáo và thu tiền mua dài hạn (!), mặc thây sau đấy những độc giả khờ khạo và những nhà buôn, nhà kỹ nghệ sắp khuyếch trương nghề mình.
Những độc giả này đã chỉ được đọc độc một số đặc san chào hàng đó thôi. Nói Thật là nói giả dối. Những nhà đăng quảng cáo đã chỉ quảng cáo lẫn nhau vì thực ra người ta đã chỉ cho in đủ số báo để phát cho những nhà trả tiền quảng cáo và ngoài ra nào có ai đọc!
Ấy là nói những khoảnh khắc thời gian mà Nhà Nước đã không xứng đáng vì chỉ là sản phẩm của những thế lực ngoại lai, những Nhà nước giả tạo để bảo tồn những thế lực đó. Trong thời gian đen tối đó, những hình thức trục lợi đều có mang danh văn nghệ như Chánh Đạo hay Nói Thật đã chỉ như những hoa dại cỏ hoang tất nhiên trong cánh đồng điêu tàn giữa dòng lịch sử văn học.
Kịp đến thời kì độc lập, nhà nước đáng lẽ phải có một hậu thuẫn văn nghệ xứng đáng hoặc phải gây giống cành hoa văn nghệ để làm tiêu biểu cho tinh thần đất nước và lãnh đạo bước tiến của quốc dân, thì trái lại chúng ta đã thấy gì? Một bầy, một lũ đầu cơ chuyên nghiệp đã thay thế cho lớp cũ và đã xổ ra để mang danh văn nghệ, múa môi khua mép nào phục vụ nhân dân, nào vì đại nghĩa tổ quốc. Vô tình Nhà nước đã thâu nhận, giao cho công tác cao cả và thiêng liêng vẫn dành cho văn nghệ để chỉ bớt được một lượt mỡ béo nhoàng nổi trên mặt bát nước sáo, theo bản chất, thường vẫn quyện vào trong lắng xuống đáy. Người ngày xưa muốn chiếm được những cái tinh tuý, nắm lấy phần thực giá trị đó phải công phu phải dùng cả một nghệ thuật cầu hiền, cả một triết lý chân thành để dụng người sau khi đã cầu được. Vẫn biết việc nước là việc chung ai ai cũng đều phải đem tài năng ra để cùng gánh vác. Song bất cứ thời đại nào tài năng và đức độ không thể sỗ sàng tự bỏ lều gianh để ra chìa tay xin việc. Và người biết tự trọng không thể được triệu về chỉ do lời tiến cử của kẻ trung gian không tín nhiệm hoặc một giấy thỉnh cầu mang đủ số và ngày gửi của một công văn suông! Trường hợp vụng về dốt nát đã xảy ra khi công văn này đã mang hình thức một trát đòi! Cho nên ai cũng hiểu vai trò quan trọng và quyết liệt của văn nghệ nhưng trước sau cũng chỉ là một vấn đề nhân sự biết hay không biết thực hiện. Người ta vẫn đề cao giá trị của văn nghệ nhưng người ta chỉ thu dụng được một lũ văn nghệ bất tài và thiếu đức độ, tạo thành những công chức ăn lương tháng để rồi cố bám lấy số lương đầu bằng cách nào để quên khuấy sứ mệnh cao cả và thiêng liêng mà nhà nước, mà quốc dân đã đặt trên vai mình. Cho nên đáng lẽ lãnh đạo quần chúng thì người văn nghệ công chức đã chỉ chạy theo đuôi; đáng lẽ làm tiêu biểu cho cả một chế độ hiện hữu, người văn nghệ ăn lương tháng đã bị chi phối bởi chế độ.
Tôi không chê trách vì không lý do để chê trách một số ít anh em văn nghệ chân chính, có tài năng và thành tích, giờ đây cam chịu sống thanh bạch dưới mái tranh giữa Đô Thành san sát những lầu buyn-đinh, để hàm dưỡng nguyên khí hoặc đọc sách giữa thời loạn. Họ sống vì dầu sao văn nghệ sĩ cũng phải như ai có một nghề để sống, họ sống do mồ hôi, do những nỗ lực, do những khó nhọc hằng ngày để lấy tiền nuôi sống họ, nuôi sống gia đình họ. Họ gạt bỏ tất cả những vinh hoa phú quý nếu phải cầu xin và xu nịnh, nếu lương tâm nghệ sĩ không cho phép họ hạ sơn chỉ vì chút hư danh và vinh hoa giả tạo đó. Vả lại họ trà trộn sao được giữa một Triều Đình còn nhiều nịnh thần sẵn sàng gièm pha sớ thất trảm của Chu Văn An. Và giúp ích sao đặng khi nạn đầu cơ văn nghệ và trục lợi nghệ sĩ vẫn còn tồn tại trầm trọng.
Ro, ro, ro. Một loạt khói tung ra. Tiếng anh Y. thốt lên, cao giọng như trút mọi nỗi bực dọc làm cho tôi ngừng suy nghĩ trở về thực tế, về một thi nhân bên cạnh bàn đèn, bên cạnh những khách hút nghèo nàn và những bàn đèn xấu xí và cáu ghét:
“Anh Đẩu ơi! Bọn văn nghệ chúng mình có ai muốn sáng tác bắt buộc, làm những việc theo com măng (commande: đặt trước) đâu. Nhưng tình thế xui nên mình sống trong cái nhà nước ba vạ. Để mưu sinh cho mình cho gia đình mình và ngoài ra “đệ” còn đa mang cái nghiệp thuốc sái, nhiều lúc, huynh là bậc tri kỷ, “đệ” chẳng giấu mà có giấu huynh cũng không được, nhiều lúc “đệ” đã phải làm liều, nhưng là trái với sở thích và khả năng của mình hầu như là viết mướn, viết thuê vậy…”
Tôi liền an ủi anh bằng một câu khôi hài:
“Ồ! Có gì lạ hở anh. Nàng Kiều có muốn làm đĩ đâu mà cũng cứ phải tiếp khách. Cũng như có rất nhiều văn sĩ, thi sĩ đã bị bắt buộc đánh đĩ với cây bút của mình…”
Rồi tôi nghĩ thầm, mỉm cười:
“Có điều là nàng Kiều đánh đĩ vì giữ trọn đạo hiếu, còn anh, anh đánh đĩ để giữ tròn chữ tình với nàng Phù dung”.
Con mắt hau háu, Y. hỏi tôi:
“Anh cười gì?”
Tôi không ngần ngại, đối với một bạn văn nghệ, đã nói to cái điều mình suy nghĩ thầm kín:
“Tôi bảo anh là người tình nhân chung tình”.
Y. vốn thông minh, miệng bận ngậm dọc tẩu hút nên đã chỉ tay vào ngọn đèn gật gật dẫu mấy cái mắt nhay nháy để tỏ mình hiểu rồi.
Lặng im một lát, anh nói:
“Nhưng anh ạ, có nhiều lúc, đêm khuya hút nhiều quá rồi, nghĩ xa thôi lại nghĩ gần, thấy đời mình khổ quá, tôi đã muốn co chân đạp tung, đạp cho vỡ quả địa cầu này”.
Nhà viết phóng sự đã vội ghi nơi đây, trong tiệm 8… đường Lacaze, một câu nói hào hùng hiếm có mặc dầu là hiếm có và hào hùng ở … một dân nghiện.
Như trên tôi đã có dịp nhắc, mấy tháng sau đấy, muốn rõ ràng hơn thì sau những ngày xung đột Bình Xuyên cuối tháng Tư và đầu tháng Năm d.l. – tôi tình cờ đã gặp anh Y. nằm co trong một tiệm hút rất lịch sự tại Chợ Cũ, Sài Gòn. Y. cũng co chân nhưng không phải để đạp tung quả địa cầu tìm cái chết ghê gớm trong cái chết của cả nhân loại. Vì chắc chắn nhà thi sĩ nghiện hút cũng như gã tiều phu của thi hào La-Phông-Ten, dẫu có khổ cực đến mấy cũng vẫn muốn sống, khi có thể được chết ngay. Trông thấy tôi, Y. đã tươi cười và giơ tay bắt con mắt vẫn hau háu tinh khôn:
“Chà! Anh Triều Đẩu, ở đâu cũng gặp anh”.
Tôi trả lời gọn:
“Tại tôi có tính tò mò về những thiên hạ sự”.
Và nói thêm:
“Trông anh kỳ này phong vận rồi. Chắc rằng anh đã có mười vạn binh và mặc áo gấm về làng… mà chỉ thiếu có con ngựa trắng!”
Y. cười:
“Đại ca cứ giễu tiểu đệ hoài. Ý chừng đại ca cho rằng đệ không biết cưỡi ngựa mà chỉ có biết lái máy bay”.
Tôi cười không nói gì, được anh Y. mời cùng nằm bàn đèn và tâm sự:
“Đúng như lời đại ca, kỳ này đệ kiếm được nhiều tiền vì viết mướn đắc lực và có rất nhiều com măng. Đệ đã phải lập một ê-kíp mới kham hết công việc”.
Biết tôi không nghiện, nên anh cũng không mời hút. Trái lại, điếu thuốc lá thơm anh vừa chìa cả hộp ra thiết tôi lại thuộc loại thượng hảo. Tôi nằm ngửa, thả khói lên trần nhà, vị thuốc thơm làm thơm cả môi, khói thuốc thơm làm thơm lây cả mũi. Tôi nghĩ tới nước Mỹ xa vời, nghĩ tới đồng nghiệp Hê-Minh-Oay vừa được phần thưởng Nobel, nghĩ tới hoàn cảnh tươi đẹp của những văn nghệ sĩ sống trong xứ sở đó. Và tôi tự hỏi biết đâu, phải biết đâu không vì cảm thấy mình khốn nạn trong cái quê hương khốn nạn mà một số văn nghệ sĩ đã tìm cái quên với nàng á phiện.
Và tôi đã trở lại cái thiên đường nhân tạo của anh Y. Tức là căn tiệm hút đờ luých (Deluxe: Lịch sự) này. Vì các hình thức để kích thích thị dục con người bất cứ ngành nào cũng được người ta khuếch trương và tô điểm tới cực độ. Nếu đã có những tiệm ăn sang trọng mà người ta kê giá một món ăn Tầu tới ngót hai ngàn đồng, nếu đã có những phòng trọ được bài trí lộng lẫy và gồm đủ tiện nghi lẫn lịch sự đến mức xa hoa hầu như không cần thiết thì tại sao lại không có tiệm thuốc phiện mà chúng tôi đang nằm tại đây. Đó là một căn phòng ấm cúng tại lầu thứ ba một căn phố (nhà) lớn giữa con đường Guynemer Chợ Cũ. Chỉ một vị trí cao vút như vậy cũng đem lại cái thú vị là mình nằm trên mấy từng đầu người, trên tất cả sự ngọ nguậy họat động điên cuồng của thế nhân. Và chẳng cần tu tại chùa chiền nào, chúng tôi cũng nghiễm nhiên là những vị… Thượng tọa. Tường quét vôi mầu hồng đã trở nên hung hung giữa ánh đèn sáng đầu lạc bởi tuy ban ngày mà mọi cửa đều đóng lại, như ngăn đứng lại phía ngoài cả cuộc đời vật lộn và bầy người bon chen. Quạt trần không cần chạy vì đã có gió mát lùa qua khe cửa. Những bức cổ họa treo trên cao như đưa khách say vào cuộc đời tiền cốt, gần thiên nhiên. Bàn đèn được đặt trên đệm gấm. Khách hút cũng ngự trên đệm hoa. Dọc hút bằng ngà. Và diện hút thuộc loại Song Tiên quý giá. Bồi tiêm là một thiếu phụ dịu dàng có 2 bàn tay đẹp. Mỗi khi nàng tiêm thuốc những ngón tay lăn que tiêm thoăn thoắt, lửa ánh lên trong lại càng đẹp. Lẽ dĩ nhiên, giá thuốc ở đây đắt hơn mọi tiệm nhiều nhưng khách có cái thú đặc biệt là được dùng thuốc ngoài Bắc đưa và nguyên chất. Và sau một số điếu gần đủ say khách có thể dùng chất sái nhất bao rất thú vị đặc biệt. Dân nghiện đã từng có câu cách ngôn: Chết kèn trống sống sái bao. Nếu người ta đã thích đến tiệm nào phần vì thuốc ngon, phần vì dễ chịu lịch sự thì ở đây người ta đã có cả hai điều-kiện đó.
Bỗng nhiên Y. nói:
“Vừa gặp một anh bạn di cư khóc dở mếu dở”.
Tôi hỏi tại sao, được anh điềm nhiên trả lời: Tại nó vừa sang được cái nhà tại khu Chợ Quán thì vừa rồi bị thiêu huỷ cả, cả nhà, cả mấy lạng vàng và tiền bạc. Vợ ốm với 9 con nhỏ chạy lạc lõng làm mấy tốp. Mãi mấy hôm sau mới tìm được.
Tôi nói:
“Tôi vẫn chủ trương con người ta có số. Cái số nó đã run rủi anh bạn đến ở đường Chợ Quán”.
Y. gật gù cái đầu chậm rãi nói:
“Lại còn ông tướng Quảng Lạc gây nên vụ xung đột sát nhân đó. Đáng lẽ khôn ra thì sung sướng chán, lịch sử loài người ít thấy có một nhân vật giầu phú gia địch quốc mà lại có cả quân sự để… định quốc. Sự nghiệp vĩ đại như vậy nay than ôi! Tan ra gio và thân thế có thể xếp vào bậc anh hùng thì đã trở về với kiếp lưu manh đặt ngoài vòng pháp luật! Chỉ vì quá tham lam đánh bạc không biết ăn non lại kém thuật dùng người, kém mưu sĩ. Nói tóm lại, chỉ tại ngu. Cho nên tôi lại càng phục câu này của một văn hào Tây phương “Cuộc đời là cuộc thử thách của khối óc. Suy nghĩ sai lạc đưa đến thất bại khổ ải cũng như người ăn ở thiếu vệ sinh thì thế nào cũng bị đau ốm.
Nguyên văn của Pau Bourget:
“La vie est l’épreuve de la pensée.
Le malheur démontre les idées fausses comme les maladies la mauvaise hygiène”
Tôi mỉm cười:
“Đấy cũng là tại số…”
Y. tỏ vẻ hoài nghi rút thuốc lá châm hút.
Có nhiều ngành kỹ nghệ ở đây, người Tầu từ lâu vẫn nắm độc quyền coi như chỉ riêng họ có bí thuật sản xuất về ngành đó. Thí dụ kỹ nghệ nấu mằn thắn mì. Hay là kỹ nghệ mở tiệm hút. Thực ra nói người Tầu nắm độc quyền về sự làm chủ tiệm thuốc phiện thì cũng không đúng lắm, vì trong nghề này, người Việt Nam cũng chiếm một phần không nhỏ. Song ở đây người V.N. đã kém người Tầu ở số lượng. Số tiệm đã ít hơn, công cuộc lại nhỏ bé hơn, mỗi tiệm chỉ có nhiều chừng 5, 6 bàn đèn là cùng.
Trái lại bất cứ ở một tiệm Tầu nào chúng ta cũng thấy một công cuộc lớn lao, đồ sộ, một tiệm lớn nghênh ngang giữa một đường phố lớn, bên cạnh những tiệm lớn khác, gồm cả nhà dưới lẫn lầu cao, trên dưới đặt song song tới ngót 100 chiếc bàn đèn, vào những buổi chiều 7, 8 giờ tức là giờ đông khách nhất.
Cho nên người Tầu chỉ chiếm độc quyền tiệm hút về cách tổ chức đại quy mô mà thôi. Và ở họ, kỹ nghệ mở tiệm hút cũng quan trọng, đòi hỏi những khả năng tổ chức y như ở tiệm buôn lớn, những hãng công nghệ to giữa Đô Thành. Chứng minh mấy mẫu tiện hút đường Lacaze và Đồng Khánh thuộc mấy loại mà độc giả đã từng duyệt qua. Ở Sài Gòn, những tiệm như vậy chiếm đầy rẫy mấy con đường lớn như Chaigneau, Guynemer, La Somme, Lefèvre, Bonnard. Nó lan tràn trong mọi đường phố khác để ngự trị ngay giữa những đường lớn như Charner, hay xa xa riêng biệt tại vùng ngoại ô Khánh Hội, Phú Nhuận. Có thể nói rằng không một con đường phố nào là không có một hay hai tiệm hút. Và thiên phóng sự này đã có lần được đặt dưới 4 đại tự ĐÔ THÀNH NGHIỆN HÚT tưởng cũng không ngoa. Đô Thành nghiện hút! Ngày nào ở Bắc Việt trong khoảng thời gian từ 1935 đến 1940 có ai đi qua Hải Phòng, cái bến dừng chân của những thuỷ thủ khắp năm châu, cái thương cảng của những khách vãng lai bốn bể, tất sẽ chú ý về số lượng các nhà hộ sinh với cái biển kẻ chữ lớn treo trước cửa. Có thể rằng một phố có tới 1 hay 2 nhà hộ sinh. Sao người ta đẻ nhiều quá vậy? Đó là câu hỏi mà khách hữu tâm đã bắt buộc tự đặt cho mình khi đặt chân trên đất Hải Phòng năm ấy.
Giờ đây điểm qua số lượng những tiệm hút tại Đô Thành Sài Gòn – Chợ Lớn khách hữu tâm cũng bắt buộc tự đặt cho mình câu hỏi: Sao người hút quá nhiều vậy? Ở một hải cảng tứ chiếng đẻ nhiều tuy là một hiện tượng nhưng cũng dễ giải thích, thì ở đây giữa một đô thị ngụp lặn trong những vui thú sa đọa của tứ đổ tường công khai và đồ sộ, thì số lượng vĩ đại tiệm hút cũng là một hiện tượng cũng dễ giải thích. Đô Thành nghiện hút! Trong cái nghiệp đen tối đầu độc này, người Tầu đã đóng một vai trò quan trọng như ngày nào họ đã từng chủ động trong Đại Thế Giới và Kim Chung! Song, biết làm sao được! Đây đó chỉ là một công cuộc kinh doanh thì tự do cạnh tranh và tự do họat động cũng chỉ là một nguyên tắc dân chủ. Và chỉ những kẻ xướng xuất mới đắc tội với quốc dân.
Về những họat động thương mại và kinh tế đã có nhiều người lo ngại sự tràn lan, bành trướng của các nhà buôn nhà kỹ nghệ Trung hoa tại đây. Tôi còn nhớ năm 1930 hay 1932 đọc báo Phụ Nữ Tân Văn đã từng thấy nêu lên hiểm họa của sự tràn lan về kinh tế và tài chánh của người Tầu, người Chà, giữa sự thờ ơ thản nhiên thụ động của người bản xứ. Ngày nay, sau 25 năm, số phận bắt buộc sống trên đất này tôi đã nhận thấy tình trạng nguy hại nói trên không hề thay đổi mỗi khi bước chân vào tiệm hút Tầu hay gặp những ông Chà bận váy thoăn thoắt sách cặp đi thu tiền! Cho nên, ở bất cứ ngành nào, thấy một người Việt Nam xen được vào cạnh tranh với người Tầu và kinh doanh họat động coi bề phát đạt, tôi đều khấp khởi mừng, mặc dầu ở đây chỉ là một ngành đen tối, không đáng để cho bành trướng mà chỉ đáng cho chết càng sớm càng hay. Vì mỗi ngày nó còn sống, là một ngày nguy hại cho xã-hội, ấy là ngành mở tiệm hút.
Trong những người Việt Nam đi tiên phong trong công cuộc tranh thủ thị trường với người Tầu về ngành này, tôi rất có hân hạnh được giới thiệu cùng bạn đọc ông Bảy Lùn chủ tiệm số 6… đường Chaigneau Sài Gòn. Tiệm ông cũng nghiễm nhiên đứng giữa một con đường lớn đàng hoàng không kém gì tiệm người khách trú. Có điều là nhỏ bé hơn theo tỷ lệ một mười một bốn, song được cái này kéo lại và làm tăng giá trị đối với tất cả tiệm Tầu là khách hút ở đây đã thấy bầu không khí ấm cúng dễ chịu cần thiết. Ông Bẩy lại là người xuề xoà và bình dân, lẽ dĩ nhiên chỉ xuề xoà và bình dân đối với khách hút kêu nhiều ngao và trả tiền sòng phẳng. Ông Bẩy xuề xoà và bình dân sống cùng gia đình cũng gồm những người chất phác và tính tình dễ dãi. Cho nên khách hút nằm đây đã như nằm ở nhà mình với mâm hút riêng biệt không ai quấy rộn và nhiều khi trong những cuộc rắc rối gia đình của ông Bảy thường rất hay xảy ra mình cũng xen vào, có khi khách quan có khi chủ quan là chính việc nhà mình vậy.
Khách hút lạ biết tiếng tiệm ông Bẩy muốn lại thăm cứ việc hỏi địa chỉ bất cứ một phu xe xích lô nào hay một người nào ở con đường Chaigneau. Từ cổng số 6 … qua một ngõ, bên cạnh là một cầu thang gác lớn đưa lên dãy nhà trên lầu, khách qua một ngõ tranh tối tranh sáng vào một cái sân rộng bề ngang. Ngay phía bên trái, căn nhà số 2 sắp hàng lẫn với những nhà khác, dưới một dãy nhà lầu có cầu thang chung bằng gạch đặt từ sân bên trái. Ấy là tiệm ông Bảy. Như vậy vào tiệm này người ta có thể đi thẳng tới mà không cần phải leo trèo gì. Tiệm cách ngăn với cái sân rộng bề ngang bằng cái rãnh ẩm ướt bẩn quanh năm. Bước qua ngưỡng cửa, khách sẽ thấy bên tay phải một gia đình nhỏ thuê ở riêng biệt có đủ giường và tủ gương. Gia đình này đã thuê lại góc nhà với ông Bảy chỉ gồm ít người thôi: một người chồng da ngăm đen, nói giọng Nam Việt, một người vợ tóc uốn, khuôn mặt đen và gầy có vẻ lai tây đen, đứa con chừng 4, 5 tuổi là nguồn vui cho đôi vợ chồng trong cái giang san nhỏ bé.
Họ sống trực tiếp trong tiệm hút mà xem chừng là những người xa lạ đối với những cái bàn đèn đặt trên ghế ngựa phía bên kia cùng với một số khách hút tạm bợ khi ngăn trong đã đông đủ khách rồi. Trước khi vào ngăn trong – và đây mới là phần chính của tiệm, khách hút sẽ thấy ngồi cạnh cửa ra vào một người đàn ông tóc hoa râm, miệng loe, đang mải miết phết thuốc phiện vào những ngao đồng màu vàng bẩn; lòng ngao nông choèn gần như phẳng, ngang với miệng ngao và lòng ngao có lẽ như lòng người đời, đã nông thì nông một cách chán chường, tàn nhẫn. Người ngồi đó là ông Bẩy chủ tiệm.
Ông ít nói, lầm lầm lỳ lỳ, người ta nói rằng vì lúc nào cũng phải lo toan tính toán vì tiền. Nhà đông người, hai vợ, con trai con gái đã lớn mà chưa có vợ có chồng, chưa có cả cái sự cần thiết nhất là một nghề để sống. Trước mặt ông, dưới ánh ngọn đèn điện lờ mờ, mấy dọc tẩu đã dùng rồi vừa được đưa ra nằm chờ để sau đấy người bồi tiêm sẽ nạo lấy nhựa trước mặt ông.
Cái bàn nhỏ xíu nhất định không lịch sự ngăn nắp như một bàn giấy của một chủ hãng lớn. Nó chỉ là một nơi làm việc của một chủ tiệm thuốc phiện, vừa để làm sái, vừa được làm chỗ tựa để lúc nào rỗi việc ông Bảy ngồi ngủ gật. Cho nên nó có vẻ lôi thôi, xoàng xĩnh, dùng vào đủ việc như một con sen trong một nhà trưởng giả mà chủ nhân là một gã đứng tuổi sống độc thân. Và trên mặt gỗ loang lổ chiếc dọc tẩu nằm gối lên một cái hộp róc sơn, bên cạnh mấy tờ giấy bạc một đồng còng queo.
Qua cái bàn án ngữ đó, khách đã vào tới nơi trung tâm của tiệm hút. Trên hai tấm phản kê phía bên trái, hai mâm hút được đặt lên, bên cạnh hai tấm đệm bọc vải trắng giải song song cùng với đủ gối bông cao vừa đến mức để khách ngự nghiêng mình, kề tai vẹ xuống hút. Xung quanh phản gỗ gắn ngay vào tường quét vôi màu xanh, là những tấm gỗ mỏng lát lâu ngày đã lên nước hợp với mầu của tiệm, tức là mầu nâu đen bóng nhoáng. Trên những tấm lát gỗ liền miếng đó có những ngăn rộng và dài gắn liền khiến cho khách có cảm tưởng như đang nằm trên một cái đi văng lớn, số báo chí, sách vở thuộc đủ loại, đủ cỡ, đủ mầu sắc. Thường những khi thuốc đã no nê, khách hút có cái thú tinh thần là đọc báo.
Những sách báo cũ rích trên dây, người ta bất cần mới cũ và có thể giờ đây người ta chăm chú đọc những tin, tưởng chừng vẫn sốt rẻo: ông Truman đang ngồi ghế Tổng thống Hoa Kỳ và Thủ hiến Nguyễn Hữu Trí cùng nhân viên tuỳ tùng đang đi kinh lý vùng Thuỷ Nguyên (Kiến An) được dân chúng hoan hô nhiệt liệt!
Cuộc kinh lý đã được đăng bên cạnh hai bức hình ghi rõ dân chúng sắp hàng tiếp đón và đoàn học sinh dang tay làm một hàng rào danh dự. Lẽ dĩ nhiên là trước trước micro, Thủ hiến đang hùng hồn kêu gọi dân chúng và cho ra một chương trình dân sinh và bài trừ thối nát.
Mặc dầu lúc ấy Nguyễn Hữu Trí đã ở dưới âm ty nhưng có hề chi, ngự yên ổn trên đệm bông đầu cao gối, tơ mơ trong giấc thức ngủ của trần gian đầy sinh thú, đầy hạnh phúc nầy, khách á phiến đã chỉ đọc để giết thì giờ hoặc để lừa dối chính mình mà thôi. Năm tháng, thời sự, chiến tranh hay hoà bình, ngoại giao hay nội bộ, thủ đọan nhất thời hay chương trình 3 năm, dân nghiện cũng xếp bẹp dưới tai. Trên đi văng, đã có mặt không biết tự bao giờ tuy chắc chắn mà coi bề đã lỏng lẻo, bức họa một thiếu nữ ngắm trăng lồng trong chiếc khung vàng sơn đã róc. Bên cạnh cũng lồng trong kính một thiếu nữ xoà tóc, mắt buồn rượi giữa một khung cảnh ảm đạm chiều mùa thu.
Thiếu nữ buồn vì đâu và vì ai? Nằm hút nơi đây mà lòng đã say, mắt ngước trông, người khách cũng lây nỗi buồn mà chạnh lòng thương cho ai mà lại tiếc cho ai! Nhưng chao ôi, biết làm sao được! Kiếp này đây thôi đã thôi rồi! Vì nàng chỉ còn lờ mờ nhân ảnh mà ta đây cũng giành lấy lấy giả làm chân, bên cạnh ánh đèn dầu lạc. Và lại bên cạnh khung ảnh nàng, ông Bẩy đã chửi mỹ thuật bằng cách cho treo một bức họa một đĩa món ăn lớn có tôm hùm, cua bể và cá chép…
Phía đi văng có đệm chiếu và gối bông lịch sự là chỗ đặt bàn đèn dành cho những khách lịch sự. Lịch sự ở đây chỉ có nghĩa là “sộp” hút nhiều thuốc lại ít đếm xỉa đến tiền chi phí. Qua một lối đi giữa nhà từ cái cửa có cái bàn làm việc của ông Bẩy đến phía trong là bếp, chuồng tiêu, cái sân con và những chum đựng nước.
Muốn kỹ lưỡng hơn chút nữa, chúng ta cần phải ghi thêm mấy tấm gỗ ghép thành giường kê cạnh cái sân ăn liền với một căn nhà con con phía tận cùng. Trong căn này, một tiểu tiểu gia đình nữa ở. Nói tiểu tiểu vì ngăn này quá nhỏ mà gia đình này cũng qua nhỏ. Nhỏ xíu tất cả. Nhỏ xíu với hai chiếc ghế nằm nhỏ bé tạm đủ dùng cho một gia đình gồm có 2 vợ chồng thường vắng mặt.
Ấy là gia đình ông B. bồi tiêm. Ông B. làm nghề tiêm thuốc ở ngay trong tiệm, vợ ông làm nghề điếm quanh quẩn gần đường phố ấy thôi. Cả hai vợ chồng đều nghiện. Sống thường thì ở chỗ khác, tức là ở ngăn ngoài có bàn đèn, hai vợ chồng ông B. chỉ có mặt tại gia đình và sum họp với nhau chỉ những đêm đêm vào khoảng từ quá khuya đến sáng, nghĩa là cũng ngoài giờ làm việc. Chúng tôi phải ghi rõ và dài dòng về khoản này để giải nỗi thắc mắc cho một khách hút nào ngự trên đệm dài ở ngăn giữa và nhìn vào trong tất nhiên đã phải chú ý tới căn nhà quá nhỏ và quá vắng lạnh kia sẽ vô tình có thể bít lối tháo lui nếu ngộ nhỡ có xảy ra cuộc khủng bố ban đêm.
Bây giờ xin mời bạn đọc trở lại ngăn giữa, trong đó bạn đọc vừa được thấy cả bộ đi văng vĩ đại chiếm quá nửa căn nhà. Thực ra, cái đi văng có thể cho ta một cảm giác đồ sộ quý giá hơn.
Chứ ở cái xứ sở mà gỗ sản xuất nhiều hơn gạch ngói, mà gỗ dùng để lát giường, làm tường thay thế cho gạch vữa, thì cái sự đi văng liền mặt gồm cả một phiến gỗ rộng lớn có nghĩa lý gì. Cho nên, ở đây, ở cái nơi dùng làm cơ sở để đặt bàn đèn, mỹ thuật đã bị hy sinh cho tiện dụng. Người ta cần tiện hơn cần đẹp. Và do đấy, tưởng rằng có một đi văng mà chính ra lại có hai. Đi văng duy nhất chỉ là do tưởng tượng. Hai đi văng đặt liền đầu dành giới hạn cho một lối đi nhỏ bé. Lối đi này là một cái khe có cái bất tiện nhỏ là khách có thể để rơi xuống đó những thứ vặt, bao diêm, tờ báo, cái mùi soa, còn gì nữa?
Nhưng có điều tiện lợi kéo lại là khách sau khi mặc áo đi giầy rồi toan đi, mà còn cần lấy thứ gì đặt trên ngăn cao sát tường kia, khách có thể lách qua khe đó mà vào gần được. Điều tiện lợi nữa và điểm này mới đáng kể ở một tiệm hút hơn ở chỗ khác, là cái khe cái lạch nhân tạo này đã chia ranh giới cho hai nơi riêng biệt và cần sống riêng biệt, cho hai thế giới cần được biệt lập mặc dầu thuộc cùng một giới tức là giới bàn đèn. Tôi vẫn phục các ông chủ tiệm Việt Nam hay Trung Hoa vẫn có một khoa tâm lý thực tiện lợi là dựa vào cái định thức bất di bất dịch: Suy bụng ta ra bụng người. Bởi lẽ các chủ tiệm đều là dân nghiện nên đã xác nhận rằng nằm hút riêng biệt với một mâm hút của riêng mình là một điều kiện trước tiên của hạnh phúc. Và nếu có phải có ai nằm cạnh thì người đó – lẽ dĩ nhiên là không đời nào có thể là vợ mình được – người đó chỉ có thể là một bạn tri kỷ tâm giao nằm cùng nói câu tâm sự hay cùng thưởng thức cái thú đi gió về mây. Còn gì khó chịu bằng vì hoàn cảnh thiếu điều kiện của tiệm mà phải tự ghép mình nằm cạnh một đồng bệnh và đồng nghiệp (!) mà mình chưa từng quen biết – đã có những thói quen ghê tợn như khạc nhổ không ngừng hoặc “săng đèn” như nói dóc không ngừng.
Cũng có thể ông bạn nằm bên đã hàng tháng không tắm để toả ra làn hơi hôi hám và chỉ một lát nằm và gối cũng đủ làm thấm ướt mồ hôi và cáu ghét đen sì cả một hệ thống gối đệm vừa giặt ủi và thay xong.
Cái ngoặc dặm trên dây cũng không ngoài mục đích chứng minh tài xếp đặt tâm lý của ông Bẩy chủ tiệm. Và giờ đây đã đến lúc ta vượt qua làn mức tức là cái lối đi phân cách bên này là cái xã hội lịch sự giầu có, hút không cần đếm xỉa đến số lượng ngao nhiều hay ít, nằm đệm bông gối đầu thoải mái và tơ mờ sung sướng thoả thuê kiến cho những đồng bào ít tiền nằm phía bên kia làn mức phải ghen tuông.
Bên kia làn mức tức là cái nơi có cái giường nghèo này, cái chiếu xộc xệch hoen bẩn và thiếu ánh sáng điện, tất cả được đặt áp tường vôi không có gì bài trí. Vì rằng ông Bẩy như chúng ta đã biết là một chủ tiệm hút sành tâm lý nên đã chia khách hàng ra từng loại hơn kém và đã liệt dân nghiện nằm trên giường khổ hạnh này vào hạng… cùng đinh.
Nói theo danh từ chuyên môn thì đây là giai cấp vô sản. Gái điếm, anh lưu manh, hay kép hát thất nghiệp. Có điều làm cho nhà cầm quyền có thể yên tâm là các dân nghiện đều thành thực phục vụ hoà bình và mặc dầu là vô sản họ không hề nghĩ tới đấu tranh giai cấp.
Nhà ông Bẩy vẫn có thường trực hai người bồi tiêm. Một gã mặt dỗ hoa tái xanh, lẽ dĩ nhiên là vì nghiện nặng lại đói thuốc. Có hút thì anh ta chỉ hút sái. Khách hút có cho tiền riêng thì nào tiền cơm tháng, tiền may mặc, tiền tiêu vặt. Còn thừa chút ít anh mới có thể mua thêm thuốc để bao sái. Bao một cách mỏng manh như chút mỡ lòng thòng dính vào xương cháo mà thôi. Vì phần thuốc mà ông Bẩy mỗi ngày dành cho anh thì chỉ đủ tạm cho anh qua cơn nghiện.
Thế nhưng anh vẫn sống, sống lay lắt vất vơ vất vưởng, thất thường do những tiền “puốc-boa” của khách – để kéo dài cái đời nghiện ngập như hầu hết các đồng nghiệp khác, những bồi tiêm, Anh sống không vợ không con, bên lề của cuộc sống chung thiên hạ và chỉ biết có một quê hương mượn, một gia đình người. Đó là nhà ông Bảy và cái bàn đèn công cộng kia.
Anh sống lầm lầm lỳ lỳ trong tiệm từ bao năm nay ít ăn nói, ít cử động. Nếu có khách vào và là khách quen, anh sẽ nhếch miệng chào. Nếu là khách lạ thì cái miệng anh không hề động đậy. Vì anh chỉ cần làm mấy cái cử động máy móc như sắp chỗ nằm cho khách hút, rót sẵn một ly nước chè rồi nằm xoà ra chiếu hay ghé trên phản không, chênh chếch bên cạnh khách. Anh tiêm, tiêm đều cho tới khi khách bảo thôi thì anh cũng “sì tốp”, ngừng một cách tự động. Khách cho tiền riêng thì dẫu quen dẫu lạ, anh cũng cảm ơn. Đó là lời nói duy nhất của anh, từ khi có cái nghiệp bàn đèn. Tên anh là gì? Người ta cũng không biết. Chỉ biết rằng người trong nhà vẫn kêu anh là anh Sáu thì khách hút cũng cứ kêu anh là Sáu.
“Anh Sáu! Đi mua hộ ly cà phê ngon thơm dặm như mọi khi hẻ”.
Anh gật đầu và đi mà cũng không cần dạ, dạ, như thường tình. Người ta cứ tưởng anh câm, thực ra anh chỉ câm khi đói thuốc mà thôi.
Nếu giàu có như anh, nếu đủ tiền như nó, nếu thừa điều kiện như tôi thì Sáu nhất định sẽ lúc nào cũng no thuốc, say thuốc. Và theo những đặc điểm về tâm lý người nghiện, anh sẽ họat động siêng năng và mạnh mẽ, đồng thời sẽ trở nên họat bát, nói năng phải đường như ai. Và lúc ấy, chỉ lúc ấy, thuốc phiện mới có tác dụng một cách xứng đáng. Anh sẽ nhanh nhẹn chứ không lầm lầm lỳ lỳ, đa ngôn chứ không ít nói. Vì rằng ngay từ ngày nào ngoài Bắc Việt, thuốc phiện vẫn được anh em gọi đùa là cao khướu, hay nói, nói như khướu.
Đồng nghiệp của Sáu trong tiệm nầy là ông B. Ông B. người xương xương, cao mảnh khảnh, da ngăm ngăm đen, râu cứng, rậm, mắt sâu trên cái miệng loe ra như lúc nào cũng sẵn sàng đón dọc tẩu hút. Ông này thuộc hạng người rậm râu sâu mắt nghĩa là cũng có tướng nhưng tiếc rằng ông chỉ là một bồi tiêm.
Ngoài ra tiệm ông Bẩy còn một số bồi tiêm dự bị trong số những bồi tiêm thường trực, và một hai bồi tiêm phụ nữ. Hạng bồi tiêm này được “mần” khi tiệm đông khách hút mà số bồi thường trực không đủ để thoả mãn nhu cầu sự vụ. Nói một cách rất trang trọng, thì ông B. và anh Sáu là nhân viên chánh ngạch, thường xuyên, còn những ông Tư, anh Ba thì chỉ là nhân viên công nhật hoặc phù đông hoặc phụ khuyết. Như vậy dù thường xuyên hay công nhật họ cũng đều là đồng nghiệp với nhau và đã là đồng nghiệp thì họ đã như mọi đồng nghiệp cứ hục hặc nhau hoài, hục hặc không phải vì quyền lợi xung đột như các đồng nghiệp mà chỉ vì người ta đều đói thuốc thế thôi! Song, trong nhà ông Bẩy vẫn có hẳn hoi những sự sắp đặt gần như là chính thức, những sự tổ chức kỷ luật ngầm mà mọi người phải tôn trọng. Thí dụ như đối với nhân viên chánh ngạch công việc đã rõ rệt nhứt định mà quyền lợi cũng đã được ấn định một cách phân minh. B. có khách hút của B. và B. chỉ phục vụ những ông khách đó. Thế có nghĩa là khi một ông khách nào vào mà B. nhận thấy là của Sáu thì B. sẽ kêu Sáu ra “mần” thuốc cho ông… ông Hai, mặc dầu lúc ấy B. đang rảnh tay mà Sáu thì bận một việc gì trong nhà. Ông khách – ông Hai – đành nằm dài hút thuốc lá hay xem báo, đèn có thể đã thắp sẵn, chén nước đã rót đầy và những ngao thuốc đã được đưa ra đặt lấp lánh trên mâm hút. Thành ra khách đã vô tình lệ thuộc một sự gì đã sắp đặt trước mà chính mình có khi cũng không hay để rồi mãi sau này mới nhận ra rằng mình chỉ là người của anh Sáu hay của ông B. Vậy chỉ khi nào hai nhân viên chánh ngạch này vì một lẽ gì đều vắng mặt cả, khách mới thấy, khúm núm và e dè, một anh bồi tiêm loại công nhật lại tiêm thuốc cho mình. Sự thực thì lối tổ chức như vậy cũng có cái thú vị. Là vì cái nghề đi hút cũng giống như cái nghiệp đi cắt tóc cạo mắt, hoặc cái sự đi ăn tiệm. Cắt tóc, cạo mặt mà gặp được anh thợ vẫn làm cho mình thì mình sẽ thấy dễ chịu. Anh thợ đã thuộc cái kiểu tóc mình ưa, thuộc từng cái nốt ruồi hay mụn trứng cá trên da mặt cần phải thận trọng, sau nữa thuộc cái tật râu mình vốn cứng cần phải xoa hai lượt xà phòng để khỏi đau và rát đến chẩy nước mắt.
Còn đi ăn tiệm quen, mình sẽ gặp anh bồi bàn quen thuộc biết mình thích một bát hành tây chộn dấm ớt, anh sẽ tự động đưa ra và tra đúng độ lượng chua cay để cho mình cứ việc phóng tay phát động phong trào ăn uống và ba hoa cùng bạn tri âm đối diện mà không cần phải bận bịu vì những cái biện chứng pháp về gia vị sắng sáu và xì dầu. Cho nên trong tiệm hút quen thuộc nằm thoải mái ta đã đặt cả cái thân hình có trọng lượng trong cõi mộng nhẹ nhàng phiêu diêu để chỉ việc đỡ khẽ cái dọc tẩu thuốc do anh bồi tiêm quen đã đưa tận miệng. Không phải sai bảo điều gì, không phải để tâm mảy may đến những cái vật chất. Khi đã say say, choàng mắt nhìn trần thế thì ly cà phê đen đúng giọng mình đã đặt sẵn gần kề, ta chỉ việc trề môi ra nhắp và chép chép cái miệng. À ngon! Trong khi ấy ông B. vẫn lặng lẽ và đều đều lăn que tiêm nướng thuốc trên mặt diện, lửa ánh lên để làm cho ta điếu thuốc thứ 7. Thấy ta vui, ông B. sẽ họa theo chiều vui của ta mà kêu: “Thuốc hôm nay ngon!” để kích thích a-pê-ti hút của ta. Thản hoặc thấy ta ưu tư buồn buồn rười rượi: “Chà! Bả nhỏ nó nhà tôi lại bị giữ”. Ta sẽ tròn đôi mắt như có vẻ ngạc nhiên mặc dù ta thừa hiểu rằng bà vợ ông B. vốn là gái điếm lậu thuế thì cái sự bà bị bắt giữ vẫn là sự thường gần như cơm bữa. Thế có nghĩa là ta đã chia tâm sự cùng người trong cuộc. Rồi tới khi chạnh lòng vì người cộng sự tiêm cho mình vừa gập hồi đen, ta chìa điếu thuốc lá thơm ra mời, ông B. “dạ” một tiếng rồi đỡ điếu thuốc giơ lên đèn châm và hóp cả hai má lại hút, hút. Lúc ấy ông B. mới cho ra hết cả nỗi bực mình: Con chó yêu quý, con chó “vzàng” là nguồn vui và lẽ sống của ông bên cạnh người vợ già, con chó đó vừa bị bắt chỉ vì cái tội chạy ra đường! Con người không con cái, không tương lai, không cả hiện tại nữa, ông B. của tôi đã khổ sở khi thấy vợ và chó đều bị giữ. Để ngày ngày ông đã phải có lúc bỏ cả “mần” (tiêm) thuốc cho khách tức là tạm bỏ nghề sinh sống để tay nắm cơm, tay gói quà đưa vào cho chó cho vợ!
Ngoài ra trong số nhân viên phụ khuyết người đáng chú ý nhất là ông Tư, ông này thân già quắt queo, mắt đeo “kiếng”, miệng trều ra dưới cái mũi hếch và đôi lưỡng quyền rô. Da mặt ông tái sạm vì thuốc sái. Ông cũng thường ở luôn đây và thỉnh thoảng người ta thấy một cô gái trẻ, mập xinh tươi và phong nhuỵ lại kiếm ông. Đó là con gái ông đang học nghề thợ may. Hai bố con chuyện trò thủ thỉ và thủ thỉ. Rồi thấy ông Tư rút tiền cho con. Tiến “puốc boa” của ai, của anh, của tôi, của tứ phương, của thiên hạ!
Tôi lại tiệm ông Bẩy được cái không ai để ý tới vì chỉ là đi tòng một anh bạn nghiện thực thụ. Năng lui năng tới cái nơi hút xách này tôi rất sợ nhớ phải mang lấy nghiệp vào thân. Chỉ vì trong nhà tôi đã có một cái gương tầy liếp: một ông chú nghiện. Tôi thấy đời ông ba chìm bẩy nổi chín lênh đênh cũng chỉ vì cái nghiệp thuốc sái. Và cuộc đời khốn đốn của ông nào phải chỉ có riêng ông chịu. Nó đã cuốn theo cả một gia đình cơ cực. Vợ con, anh em đã vì ông mà bị khổ lây. Cho nên, từ khi ra đời tôi đã tự đặt cho tôi một khẩu hiệu để luôn luôn tuân theo. Cả những lúc vui anh vui em, trong những cuộc truy hoan, tôi đã luôn luôn tự nhắc mình câu này: “Có thể tất cả trừ thuốc phiện”. Vậy thì tới nhà ông Bẩy, tôi đã cố tránh những hành động những sự kiện có thể kiến cho tôi nhiễm thói quen đó. Nghiện hút chung quy cũng chỉ là một thói quen. Và lúc ấy hình ảnh ông chú nghiện quắt người, má hóp một cách kinh khủng đã hiện ra trước mắt tôi cùng với thím tôi đói rách và các em họ tôi không có tương lai. Để hết sức giữ gìn và để cứu vãn tình thế, tôi đã có một đức tính mà các bạn lấy làm thú vị bằng lòng tôi vô cùng và không những không thấy khó chịu, bực tức lại còn đến tìm tôi mỗi khi đi ra… “sân bay”.
Ấy là đức tính kiên nhẫn và không sốt ruột, không đếm xỉa đến thì giờ, có thể nằm dài cả buổi, nửa ngày cả ngày, cùng anh bạn nghiện. Để làm gì? Để cho có bạn. Vì cái nghiệp đi hút thường cần lôi kéo một anh bạn tâm giao nằm cạnh, có thế thôi. Mà nhất là anh bạn chầu rìa với nhiệm vụ một phụ tá đó về cái nghiệp đổ tường này phải có thái độ trung lập không lên mặt đạo đức, luân lý khuyên răn.
Vậy thì đã có những buổi tôi nằm cả ngày tại nhà ông Bảy, trên đệm trắng, gối bông gòn, bên cạnh anh X. Bạn tôi là một khách hút chi tiêu rộng rãi nên được ông Bảy kính nể. Tôi nằm cạnh có choán không mất một chỗ cũng chẳng sao.
Song muốn được biệt đãi như vậy tôi cần phải đi cùng với X. Bởi vì có một hôm quen mui tưởng rằng có thể hưởng cái thú tơ mơ nằm tiệm, thả tư tưởng theo làn khói tứ phương mà không phải tốn kém lắm, tôi đã lại một mình, và cũng cứ ngự như mọi ngày trên đi văng dành cho những khách hút lịch sự. Bên cạnh tôi, trên đệm êm mọi ngày vẫn là chỗ nằm của X. bây giờ là một “sừ” tây kết nghĩa, mặc quần áo cáu ghét, sờn rách và chỉ đủ năng lực tài chánh kêu có 1 ngao với sái mà lại tiêm lấy không cần bồi. Chúng tôi đang nằm yên ổn, tôi đọc báo, “sừ” tây thì nước thuốc và tiêm một cách chiến thắng. Bỗng có 2 người khách vào đứng nhìn xem có chỗ nào vắng thì nằm hút. 2 người này thuộc loại khách quen và “sộp” vẫn chiếm chỗ thường xuyên trên đi văng gối đệm lịch sự. Thấy họ vào ông Bẩy xun xoe chào mừng và giơ tay mời lên chỗ dành cho những khách lịch sự rộng rãi. Lúc ấy ngoài hai chúng tôi ra phía bên cạnh cũng có khách nằm hút thuộc vào hạng lịch sự rộng rãi rồi. Ông Bẩy liền đuổi chúng tôi một cách rất tàn nhẫn. Khuôn mặt hiền lành của ông ngày thường bỗng trở nên ác nghiệt. Giọng nói ôn tồn vui vẻ của ông vừa rồi bỗng đổi ra mắc mỏ, khắc khe:
“Ông Hai! Xuống dưới kia nằm”.
Xuống dưới kia tức là sang cái giường bên cạnh, phía bên phải lối đi giữa nhà, nơi dành cho những loại kiết cú.
Chỉ 2 tiếng xuống dưới cũng đủ hình dung được cái cảnh nhát tự cách trùng và tình trạng vô cùng thấp kém của chúng tôi. Tôi đã ngoan ngoãn nghe theo vì cũng nhận rõ cái địa vị của mình trong bọn khách nằm nơi đây. Vả lại, trong cách xử thế, tôi vẫn hằng theo cái triết lý an phận thủ thường của cố nhân. Trong khi ấy ông Tây kiết hút xong đã lâu, còn mải miết xem một cuốn tiểu thuyết cũ rách bìa, không nghe rõ lời hiệu triệu của ông Bảy, nên đã bị ông lôi xềnh xệch xuống dưới kia. Đến lúc ấy ông Tây mới hiểu rõ, ngoan ngoãn để người ta lôi đi, Ông ta đem theo nào bao thuốc lá, cái “kiềng”, quyển sổ tay, một ly cà phê đen uống đã gần cạn và cả cuốn sách khổ. Ông ta dọn chỗ sang giường dưới kia cũng cồng kềnh đồ đạc đi lại hai ba lượt như là dọn nhà vậy. Hai quý khách thấy vậy có lẽ cũng ngượng rằng mình đã gián tiếp không lịch sự nên đã ra hiệu cho ông Tây cứ ở yên chỗ cũ để mình nằm giường dưới cũng được. Nhưng ông Tây đã tay mang tay xách, miệng nói dằn tiếng: Ca-ca-va! C-c-ca-va! (Được rồi)
Chúng tôi đã nằm yên chỗ trên cái giường vô sản lúc ấy đã có một cô điếm đang ngủ say. Tôi mỉm cười hỏi người Tây:
“Ca va?” (Có khá không?)
Thì được ông ta cho ra một tràng tiếng Pháp lời và ý lâm ly và buồn thiu như một bài văn thiêng tường:
“Ồ! Khá gì, thất nghiệp đã 3 tháng nay. Vác đơn vào đâu cũng chi thấy có rán người. Mà tôi thì thầu khoán được, chữa máy, trồng tỉa được… Nếu tôi chưa xin hồi hương cũng chỉ vì tôi thương vợ tôi – người Việt Nam – hiện chửa 6 tháng và đã có một con với tôi…”
“Mỗi ngày hút bao nhiêu? Mấy bữa?”
“Ồ hai bữa, mỗi bữa một ngao 10 đồng”.
Do lẽ cha truyền con nối, tiệm ông Bẩy có ngót 30 năm thâm niên. Nếu 30 năm có thể tính là một đời họat động thì thành tích của tiệm này không phải không đáng kể. Vì rằng trong một đời người, thời gian 30 năm dài dằng dặc đã giúp một vĩ nhân thừa sức xây dựng một sự nghiệp vĩ đại. Ba mươi năm làm văn nghệ, ba mươi năm làm chính trị, ba mươi năm thương truyền hay kinh doanh thì sao lại không thể ba mươi năm mở tiệm hút với ba mươi năm nghiện ngập! Nếu ta tính đốt ngón tay và thử định lại mốc đi của dòng năm tháng, ta sẽ nhận thấy tiệm này khai trương vào khoảng những năm 1926 – 27. Nghĩa là nhằm thời hoàng kim của chủ nghĩa thực dân. Đời sống thanh bình êm ả dưới chế độ những quan cai trị Pháp, cao su mọc tốt lắm. Cà phê, chè, lúa cũng “bố cu” tốt. Nhân công thì rẻ như bèo. Người dân một mực phục tòng dưới sự điều khiển của các ông Huyện, ông Phủ, ông Tuần trung thành và tận tâm với “Mẫu Quốc”.
Cái thằng dân “An-Nam” tuy rằng chỉ thừa hưởng cơm thừa canh căn nhưng do cuộc sống trong cái “hoà bình” kiểu Pháp quốc (la paix francaise) thẩy được làm ăn yên ổn. Và theo câu thơ của một thi sĩ Pháp ở thuộc địa – auteur colonial – thì trong nhà anh Nguyễn Văn Nguyên buổi tối đèn thắp sáng, người ta nghe thấy:
“Sụch sạch tiếng chạy của một máy khâu!”
Phải! Giữa cảnh thanh bình kiểu thuộc địa ấy người ta thấy có những ông Tây sung sướng từng phả cái nhịp sống đầy đủ đẹp đẽ vàng son vào những đợi khói làm của bàn đèn, và chất nhựa nâu ma tuý của nha phiến. Ông này đi liền giới thiệu ông kia tới. Cũng vì vậy tiếng ông Bẩy đã vang sang tận kinh đô Ánh sáng và danh tiếng tiệm 6… Chaigneau đã vọng tới Ba-Lê!
Hình như vị Hàn lâm Pháp Cl. Farrère đã ca tụng tiệm ông Bẩy trong cuốn sách Khói nha phiến của ông. Ông đã có dịp nằm dài trên cái đi văng này, thả tư tưởng loại Hàn lâm viện theo làn khói trắng và quyện những cảm tình người Tây phương vào trong nhạc điệu ro ro của Viễn Đông. Nếu một nhân vật tiếng tăm vẫn để dấu vết đó sẽ vì người mà cũng được tiếng thơm. Cho nên tôi tưởng, nếu ông Bẩy là người biết thưởng thức cái đẹp, ông có thể cho gắn tại đầu đi văng kia trên phiến ván gỗ áp tường đã lên mầu thời gian một cái biển đồng kỷ niệm với mấy dòng chữ vàng Ở chỗ này ông Claude Farrère trong Hàn lâm viện Pháp đã từng nằm và đi mây về gió. Và tôi cũng tưởng, nếu ông Bẩy là người biết yêu chuộng cái thực – cái thiện ở đây đã không thành vấn đề - ông cũng không có thể gắn song song bên cạnh, một tấm biển đồng kỷ công trong lúc nước nhà đã hoàn toàn độc lập, văn hoá cũng bình đẳng ngoài biên giới và người văn nghệ Việt Nam cũng đồng đẳng với người văn nghệ quốc tế.
Ở chỗ này ông X. phóng sự gia Việt Nam đã từng nằm ca bản Không quân Việt Nam…
Thực là một hành động, một công cuộc vì Chân và Mỹ! Thế nhưng tại nơi nàng Farrere đã từng nằm, chúng ta đã thấy gì? Cũng một dân Pháp nhưng là một “Oặt công”, mũi càng lõ, mắt càng sâu, mà lòng con người xanh đã ngả mầu vàng đục. Va nằm ngủ, há hốc cái miệng, người thon ốm gầy quấn trong chiếc chiên mầu xám bẩn. Va là một khách hút suốt năm tháng tại đây, biên sổ đồng chịu đồng trả, ăn cơm tiệm và ngoài 2 buổi làm việc tại một công sở Pháp thì lại về đây hút hút và hút. Không vợ con không tham vọng, Va lấy tiệm làm nhà, bồi tiêm làm thân thích và ông Bẩy làm cột trụ. Thường thường, Va nằm trong một góc trong cùng đi văng, coi như là chỗ ở của riêng mình. Xung quanh, trên ngăn gỗ, Va để sách vở chiếc cặp da và đôi giầy của Va. Treo lưng chừng cao trên sợi dây thép trước mặt là một dẫy áo lót đã là ủi sẵn và phất phơ cái cà vạt cùng ướt sũng với một chiếc khăn mặt bông dài. Với cung cách ấy, Va đã rắp tâm trọn đất nước này làm nơi sinh tử và lấy tiệm ông Bẩy làm cái đích đi tới của cuộc đời mình…
Cờ-rét-sông – tên của Va – đã tươi cười lịch thiệp nhận cái bắt tay của tôi chìa ra như để khởi đầu một cuộc gặp gỡ bình đẳng và cởi mở. Là vì trong số những khách hút tại tiệm này, trừ mấy người Tây và Đầm cùng một số ít người V.N. lịch sự ra còn thì toàn những dân kiết cú thất nghiệp gái điếm không xứng đáng giao-du với Cờ-rét-sông.
Vả lại trong tiệm hút thường thường người ta dễ làm quen với nhau. Hơn nữa, người ta cần làm quen, cần kết bạn, dẫu rằng chỉ trong thời gian nằm gần nhau cạnh bàn đèn. Hình như ánh đèn dầu lạc vàng vàng, khói thuốc thơm toả ra trắng trắng, tiếng vọng ro ro đều đều, cả cái bầu không khí của hạnh phúc nhân tạo và ảo ảnh đã khiến con người cùng một nghiệp dễ dàng trở nên những bạn tâm giao (!). A! Đây thực sự mới là những đồng nghiệp!
“Ca va? Me sừ Cờ-rét-sông?” (Chào ô. Cresson khá chứ?)
“Ô! Pa ma, e vu?” (Ồ phải chăng, còn ông?)
“Mét-sì, pa-ma ốt-sì”. (Cảm ơn cũng khá vậy)
Sau mấy câu xã giao trên, chúng tôi đã nằm gần nhau cùng chung một bàn đèn. Song ở đây cũng như trong tiệm hút, cá nhân chủ nghĩa đã được thực hiện triệt để và quyền tư hữu được tôn trọng hết sức dẫu rằng chỉ là quyền tư hữu 1, 2 ngao thuốc con con và cá nhân chủ nghĩa chỉ có nghĩa là của ai người ấy hút. Mời mọc nhau 1 ngao 2 ngao giữa đôi bạn nghiện thực thụ là cả một chuyện hy sinh hiếm có.
Tôi muốn làm thân với Cờ-rét-sông vì nhận thấy ở người anh từ cái khuôn mặt mỏng manh, cái cằm nhọn vút đến cái khổ người thon thon, những cử động khoan thai, đã có cái gì điển hình một hàng người Tây phương lịch sự, tri thức. Từng biết “dân” Pháp dễ bị mua chuộc mà có khi chỉ bằng cái lợi con con - điều này giới quan lại biết rõ hơn ai hết – tôi đã mời Cờ-rét-sông một ngao thuốc. Tức thì anh ngồi nhỏm dậy giơ tay bắt rất chặt, cảm ơn rối rít và để lộ vẻ sung sướng hả hê khi tiếp nhận một đôi gà tây, một rổ trái quả đầu mùa do nhân viên Việt Nam tuỳ thuộc dâng lễ trong dịp Tết Tây hoặc Noel.
Cờ-rét-sông đã hóp đôi má, lim dim đôi mắt, để hết tinh thần kéo điếu thuốc thần tiên và cả miệng, tay, toàn thân y đã gắn vào đầu dọc tẩu như con người khổ sở bám lấy một nguồn vui, nguồn sinh lực. Tông Cờ-rét-sông hút một cách mù quáng, mê say và khốn khổ như vậy, ta có cảm tưởng rằng:
“Nước Pha-lăng-Sa đang lâm vào tình trạng sa đọa, truỵ lạc ghê gớm mà số phận cả nước đã được định đọat một cách quyết liệt bới cái đọc tẩu tượng trưng!”
Điếu thuốc đã hút rứt. Cờ-rét-sông nhả đầu dọc tẩu và buông tay, nghếch đầu với ly nước chiêu một ngụm, rồi nằm cả toàn thân trên đệm, trên gối một cách thoải mái, thoả mãn sung sướng để chờ tiếp thu điếu sau. Tôi gợi chuyện về cuộc đời của anh, được anh cho biết rõ như đối với một bạn tri kỷ:
“Tôi sinh trưởng ngay ở Sài Gòn này. Hiện nay làm công chức tại Sở X. thuộc Cao Ủy Phủ. Bố tôi mất từ lúc tôi còn nhỏ. Còn mẹ tôi mới mất năm 1942 tại Pháp giữa cuộc chiến tranh mọi đường giao thông bị gián đọan. Cho nên ở Đông Dương tôi đã được tin đau đớn đó mãi 4 tháng sau, do bức điện tín gửi qua Hồng Thập Tự Quốc Tế.
Tôi từ bé vẫn được nuông chiều hơn anh tôi hiện cũng làm công chức ở đây. Nên khi được tin mẹ tôi mất mà biết quá chậm tôi đã đau đớn vô cùng.
Và từ đó tôi cứ đi hút hoài. Để rồi mắc nghiện. Tôi bỏ và cai được bốn năm lần rồi rút cục, “A qua bông hẻ” [1] , tôi lại hút. Tôi hút biên sổ ở tiệm này cuối tháng lãnh lương trả. Bố Bẩy chỉ được cái hay quên và quên lấy được. Vừa rồi “Bay” (tức Bẩy kêu theo giọng tây) – đã xập xí xập ngầu của tôi bốn trăm đồng”.
Cờ-rét-sông nói một thôi dài đi từ cái đại thể cuộc đời đến các chi tiết bất ngờ và vạn vật. Anh đã đỡ điếu thuốc thứ 25, chắc đêm nay anh có điều phiền muộn hơn đêm qua. Vì ông B. bồi và tiêm của anh - đã lẩm nhẩm lẽ dĩ nhiên bằng tiếng Việt và yên trí rằng người Tây này không hiểu: “Chà! Thằng bé con này hút dữ. Mọi tối nó hút có 3 ngao 12 điếu là cùng”
Và Cờ-rét-sông đã nói tiếp:
“Cứ cái cung cách này, tôi đến phải cảm ơn “Bay” để đi hút chỗ khác mất thôi”.
Cờ-rét-sông đã hạ giọng, ghé đầu lại gần tôi như nói một điều bí mật:
“Sớm mai tôi nằm tại một tiệm giữa đường Guynemer tiệm Tầu, thuốc vừa ngon vừa rẻ, một ngao cũng 20$, được 5 điếu cả nhựa”.
Tôi thấy anh ngồi dậy, tôi tưởng anh phát lộ nỗi tức giận gì. Nhưng không! Anh ngồi dậy chỉ để sửa soạn để đi làm buổi chiều. Bỗng nhiên, hướng về phía tôi, anh tươi cười nói:
“Cuối tháng túng qua. Không đủ tiền đi xe ra sở nữa. Anh giúp tôi việc này nhé”.
Tôi tưởng việc quan trọng nên chăm chú nghe, rất đứng đắn. Nhưng Cờ-rét-sông cười nói tiếp:
“Tôi biên sổ ở đây. Tôi sẽ bảo biên vào sổ tôi 3 ngao 6 chục của anh và của anh bạn kia. Vậy đáng lẽ cho “Bay” 6 chục, anh đưa cho tôi để tôi có tiền đi xe…”
Anh bạn tôi nằm bàn đèn ngay bên cạnh đã vui lòng chấp thuận loại “com-bin” đó vì cũng tưởng rằng mình chẳng thiệt hại gì mà lại làm ơn cho anh bạn hút quen. Anh không ngờ rằng khi ra về qua trước mắt ông Bảy, anh cho biết hôm nay Cờ-rét-sông thết anh 3 ngao biên sổ “luý” [2] , ông Bẩy cần tiền và cần trả ngay đã thất vọng mặt thống xuống y như… chữ nài.
Đọan kết
Thiên phóng sự Đô Thành nghiện hút với những tiệm thuốc phiện tại Sài Gòn – Chợ Lớn đến đây có thể tạm dừng. Bởi lẽ cái gì thuộc về thuốc phiện, theo bản chất lầy nhầy, quanh quách và hung hung đen của nó, vẫn có thể “cô” lại để cho tiện việc. Thuốc lỏng phải 7, 8 tiên mới được một điếu, đem “cô” lại chỉ cần có hai ba tiêm thôi. Như vậy tiết kiệm được công chuyện và thời giờ mà hiệu lực cũng như nhau. Vậy thì nếu cứ để nguyên thể lòng mà phóng, phóng sự, độc giả sẽ mất nhiều công chuyện và thì giờ để thưởng thức một món thuốc tinh thần, có thể thú vị, có thể nhạt nhẽo trong khi đem “cô” lại, những hình ảnh dung từ thú và nhạt vẫn còn được nguyên vẹn, mặc dầu hôm nay độc giả và phóng sự giả, chúng ta đã bắt tay nhau chào tạm biệt. Nếu độc giả nào đã sửng sốt vì hai đại tự ĐOẠN KẾT và cho rằng câu chuyện “sì tốp” đã bất ngờ thì thực chưa hiểu công dụng của sự kiện “cô” trong cái nghiệp đời đời của thuốc sái.
Vậy thì để kết luận, nhà phóng sự, trong câu chuyện có thể còn dài, đã hạ bút chấm hết cũng chỉ vì không muốn kéo dài hơn nữa. Cô điếm ơi! Tôi để yên cô ngủ say sau những đêm trắng quyện với làn khói trắng. Tôi không muốn đánh thức cô bằng cách lôi cô ra ánh sáng của phóng sự. Cô ngủ há hốc cái miệng, mặt nhợt nhạt như đã chết mấy lần, như để cụ thể hoá cái sa đọa nha phiến. Và các chú Tầu chủ tiệm, các chú Tầu bồi tiêm. Các ông Bẩy chủ mươi cái bàn đèn, các ông Bẩy 1, 2 mâm hút, và ông B. và ông Tư tôi hãy tạm gởi các ông 2 chữ Bình An. Kia nữa bên lề cuộc đời họat động tưng bừng và gay go, anh Năm, ông X. Y. Z., Bạn Ng. V. Mỗ, “sừ” Pê-tô, “sừ” Cờ-rét-sông, những khách hút Việt và Pháp sống thác với cái bàn đèn, chào… quyết thắng! Với tất cả những chủ và khách, đã từng năm tháng, sống chung quanh ngọn đèn dầu lạc luôn thắp sáng, với những gái điếm và bồi tiêm, trai lưu manh và dân thành tích bất hảo đã khiêu vũ triền miên trong ánh sáng úa vàng, tôi chấm dứt thiên phóng sự này với ước mong mãnh liệt một tác động mãnh liệt của nhà cầm quyền để tắt phụt ngọn đèn muôn kiếp, đập vỡ bàn đèn truyền nghiệp, và giải tán những đoàn người quỷ hay ma. Sao còn được tồn tại gần như công khai cái hệ thống gớm ghiếc người và vật, ro ro cả ban ngày ro ro cả ban đêm? Ngọn đèn chắc nịch qua làn kính đầy ran sao vẫn còn được ngạo nghễ tượng trưng cho lửa thiêu đốt giống nòi Việt-Nam? Giờ đây nước Việt Nam đã độc lập và những sòng bạc Kim Chung và Đại Thế Giới đã bị đập tan. Câu chuyện giới yên, cai thuốc phiện, giác ngộ bùn sơ, vẫn biết là công việc của cá nhân cùng cương quyết, nghị lực và quật cường song người anh hùng đã không thể lực và quật cường, song người anh hùng đã không thể anh hùng mãi mãi khi mùi thuốc thơm vẫn công khai tung hoành và ánh đèn dầu cổ điển vẫn toả ra công cộng. Cai dễ kiêng khó. Chừa được giữ làm sao? Cho nên yếu tố định đọat và quyết liệt phải từ ngoại lai. Ở đây chính quyền phải đóng vai trò can thiệp duy nhất và hữu hiệu. Một qui định phải được thảo ra và được thi hành triệt để, đóng cửa các tiệm hút và kết tội các gã nhân tình của ả phù dung, các chủ chứa chủ tiệm, các bồi săm bồi tiêm.
Vậy để gây hào hứng đôi chút cho đọan kết, tưởng không gì hơn là tung ra mấy trang nhật ký sau đây của anh X. một người suýt mắc nghiện và kịp thời giác ngộ. Nói một cách nôm na không có dính dáng gì đến đẳng cấp quân sự, đến hình thức đấu tranh của thợ thuyền, thì đây là một cuốn nhật ký… Cai.
4.6.55, 8 giờ sáng – Hôm nay nhất định bỏ, nhất định thôi, nhất định không đi hút nữa. Thằng bạn nào rủ cũng nhất định từ chối. Nó có vật nài thì mắng thẳng vào mặt nó. Ừ! Mà sao lại có thể mềm yếu? Hiện tại và tương lai của mình nó có thể đảm bảo được không? Còn thân thế, còn sự nghiệp, còn gia đình, còn xã hội nữa. Chao ôi! Đã nghiện rồi thì tất cả đều là những tiếng trống rỗng.
12 giờ trưa – Ô hay! Ăn cơm sao thấy ngán. Bụng cứ chướng lên, cái gì đè trong cổ họng không nuốt được nữa. Thịt dim giò kho mà mùi cứ gây gây, lợm giọng. Ăn được 2, 3 miếng cơm đành buông bát đũa. Vợ hỏi sao, mình phải nói thác đi là đầy bụng.
Suốt buổi chiều – Cứ buồn ngủ hòi. Có khi đang đứng, đang ngồi mà chợp mắt ngủ lịm đi. Thôi đi ngủ nhưng ngủ cứ chập chờn, mệt nhọc.
8 giờ tối – Phải bỏ cơm, không ăn gì được cả. Người mệt lả. Đọc sách cũng không được. Tinh thần mỏi mệt.
9 giờ tối – Đi ngủ. Suốt đêm mê. Có lúc như đầu dọc tầu quay về phía mình đưa đến tận miệng!
5.6.55, 9 giờ - Sáng dậy mệt quá, miệng đắng, sùi đờm rãi, hắt hơi luôn 10, 12 cái và nước mũi cứ chảy hoài. Không ăn được gì cả. Người mệt chỉ muốn nằm hay có ngồi thì phải tựa lưng.
12 giờ - Mệt quá, tay không có sức và không buồn với chén nước ngay bên cạnh. Phải sai người lấy dùm. Không ăn gì, chỉ uống nước cam vắt đá cho đỡ khát háo và mệt.
15 giờ - Ngủ chợp trên ghế xích đu…
Tối – Đêm ngủ lại mê sảng.
6.6.55, Sáng sớm – Mệt quá, không muốn dạy, không nghĩ tới súc miệng, đánh răng. Mệt lả đi. Bởi vì đã không ăn uống gì lại đi ngoài không biết bao nhiêu lượt.
Trưa – Cố gượng dậy. Lấy hết nghị lực để đi đứng. Lảo đảo mấy bước rồi lại nằm vật trên giường. Người nhà lo lắng tính chuyện đi mời bác sĩ, ông lang... Mình đều một mực chối từ, bởi mình biết bịnh mình lắm lắm.
Nằm lơ mơ trên đi văng mà mê thấy cùng nằm với 2, 3 bạn thân trong một tiệm hút quen. Dọc tẩu chĩa về phía mình hoài!
Chiều 4 giờ - Bụng thấy hơi đói vì đã chỉ đi ngoài rồi. Ăn một chút cơm tấm giò chả và canh gan. Ăn xong mệt quá lại đi nằm dí.
Đêm – Ngủ vẫn chập chờn. Gióng chân khuỷu tay buồn ray rứt như muốn dời khỏi tay khỏi chân. Các bắp thịt rời rã. Gân bụng trườn lên bứt rứt, buồn buồn, rất khó chịu. Ngủ vẫn mê sảng.
7-8.6.55 – Sao mắt cứ long chong liền mấy đêm không ngủ được. Nguy quá!...
Hết
Recent Comments