https://www.designerds.be/slot-bonus/

https://greenwichvillagevabeach.com/slot-bonus/

https://junex.com/slot-bonus-100/

https://thefranklinjohnstongroup.com/slot-deposit-pulsa/

https://socialbalance.be/slot-deposit-dana/

Đăng nhập quanvan.net để đăng bài và bình luận trên DIỄN ĐÀN QUÁN VĂN.


Categories

Groups

BÀI TRÊN DIỄN ĐÀN

Pham Mylan
KẼ CẮP GẶP BÀ GIÀ
Truyện ngắn rất hay trong báo Pháp
***
Toa hạng nhất chẳng có mấy hành khách. Pierre Joli chọn cho mình một cupe trống. Hắn hy vọng sẽ được ngồi một mình, không ai quấy rầy trong suốt cuộc hành trình. Thế nhưng khi tàu bắt đầu chuyển bánh thì cửa cupe bật mở và một cô gái tóc vàng lịch sự, tay xách chiếc va-l…Read more

DƯỚI BÓNG MÁT CỦA LÁ CỜ “BA QUE”
Hoàng Ngọc Mai
Tôi xin gửi một bài viết hay để đám “tộc cối” đọc mở mắt ra xem còn dùng hau chữ “ba que” nữa không.
(Bài nầy tôi muốn nói cho những kẻ cứ mỗi lần vén hai cái mép mồm lên nói là phát ra tiếng “Ba Que”.)
Theo tôi thấy, thì những kẻ hay dùng cái từ 3/// đó thường còn trẻ, đa số chưa đến 60, có…Read more

ChatGPT – đột phá mới của cuộc cách mạng trí tuệ nhân tạo
Nguyễn Tiến Dũng
Bạn hãy thử hình dung luôn có bên mình một trợ lý siêu việt, đọc thông viết thạo hàng trăm thứ tiếng, chỉ dẫn và làm phiên dịch cho bạn ở mọi chỗ mọi nơi, sàng lọc tin tức quan trọng cho bạn, đọc thư và soạn thảo mọi văn bản giúp bạn, nhắc việc và gợi ý cho bạn, dạy bạ…Read more

Hòa Hợp, Hòa Giải_ Tác giả Vương Mộng Long K20 VBĐL
Ngày 15/4/1993 tôi dắt díu vợ con, hối hả lên đường bỏ xứ. Chúng tôi ra đi, một gia đình sáu người, mỗi người vỏn vẹn chỉ có hai bộ quần áo cùng cái Jacket chống lạnh; hành trang còn lại là hai va-li sách vở. Trưa hôm đó, trên phi trường Tân Sơn Nhất đã diễn ra một cuộc chia ly đầy tiếng…Read more

Đôi đũa…
Đôi đũa xuất phát từ dân tộc nào? Nhiều người nói là từ người Tàu. Tuy nhiên nhìn và soi kỹ văn minh Tàu, thấy người Huê-Hạ xưa là du mục, ẩm thực thiên về lúa mì tức là xay ra bột làm bánh rồi bốc tay mà ăn.
Trong văn minh nhơn loại, với cái muỗng nĩa dao của Tây, thói ăn bốc của Ấn-Độ thì đôi đũa của Châu-Á nhìn rất hay, quý phái…Read more

Recently Active Members

Profile picture of Nguyễn Tuấn
Profile picture of qop
Profile picture of Tony Nguyễn

Help tiinz to grow!

$5.00

Community

  • Cela Digital Solution
  • Pick Me Up Poetry. Making poetry a conversation.
  • Miyoshi
  • Sebastian
  • Andie Untamed✨
  • Toanphong
  • redimoney.org
  • chasbarclay
  • Volyphi
  • thao phuong
  • Cloud in May
  • FARHEEN DHANJAL
  • loganpaulreview
  • phan van Hai
  • Minh Phương Nguyễn
  • bestwriterblogger
  • Ruth Colby
  • Celia Hales
  • mystoryxiu
  • CryptoEnthusiast
  • Sebastian
  • Toàn phong
  • Athena Diakos
  • sawjoerogan
  • Sư Tử Biển ✨
  • dfyplrproducts
  • tnguyenpfsgmailcom
  • edwardlorilla2189towerbloggercom
  • Isis Torres
  • sawjre234
  • lophi0505
  • Inner Peace
  • Vanle
  • Tony Nguyễn
  • RetroWorldNews
  • Meina Ibr
  • Sebastian
  • Phan nhật Bắc
  • Gia Định
  • Eyasu Esayas
  • Sebastian
  • mstboulevardier
  • Dragon Queen
  • Natalia
  • Sebastian
  • Sebastian
  • Linh Khanh
  • T.Panning
  • Leanhtho
  • Dragon Queen

Advertisement

Subscribe to Blog via Email

Enter your email address to subscribe to this blog and receive notifications of new posts by email.

Join 106 other subscribers

Hiện đang trực tuyến

Visitors online – 64739
users – 8168
guests – 25528
bots – 31043

loader-image

Ngày đầu với AT&T

Thế là ông Nguyễn trở thành một phần tử trong một thành phần mà xã hội phong là "cổ trắng" (white collar).

Ngày đầu tiên, ông được hướng dẫn đến các phòng ban để bắt tay những người đồng nghiệp.

Họ là dân IT (Information Technology), tiếng tắt chỉ những kẻ làm việc trong ngành điện toán hay Tin học.

Nhóm trưởng của ông là cô nàng Debbie. Và trưởng phòng là bà Denise. Những người trong nhóm là Tim, Pat, Peter, Alexandria, Mike, Minh Yang, Carol Ha. Mentor của ông tức người đặc trách hướng dẫn là Carol. Nhiệm vụ của người mentor là giúp đỡ người mới làm quen với môi trường mới, giải quyết hay giải đáp thắc mắc về những quyền lợi như học vấn, nghỉ phép, giảm giá điện thoại dành cho nhân viên...

Ðây là AT&T, nơi tập trung những bộ óc của thế kỷ về ngành viễn thông, vệ tinh và cũng là nơi UNIX [1] được khai sinh trong một phòng lab bề bộn dụng cụ tại Murray Hill mà cha đẻ là Dennis Ritchie. Người ta nói theo truyền thống của AT&T, một khi làm việc với nó là làm suốt đời, có khi cha truyền con nối.

Ngày đầu với AT&T. Tháng giêng tuyết giá vần vũ. Dưới lầu, bên kia bờ rào là xa lộ 287. Xe cộ dập dìu. Bầu trời xám đục không cụm mây. Những hàng dẻ sồi trơ cành trụi lá. Ai biết nỗi lo của ông không. Từ khi bước vào đời, ông chưa một lần cảm thấy lo cơm lo áo lo những hệ lụy của cuộc sống như vậy. Ði lính thì quá dễ. Có bằng Bán phần trở lên thì đi sĩ quan. Muốn từ chối ân huệ yêu nước, guồng máy cũng không cho phép. Rồi đi dạy cũng vậy. Ra trường khỏi nạp đơn, khỏi cần phỏng vấn. Rồi ở tù thì có kẻ khác lo hết cho mình. Bây giờ, một Tan Nguyen tên thật là Nguyễn văn Tân, đang bắt đầu giáp mặt với đời, lo cơm lo áo. Không thể làm một ẩn sĩ ở xứ sở này.

Ngày đầu ông được giao một lô sách để đọc. Những tập tài liệu dày cộm bìa đỏ của IBM gọi là Red Book. Không hiểu phải ráng hiểu. Không ai có thể giúp mày. Tân ạ. Ðọc giữa tiếng máy chạy rầm rầm, giữa muôn ngàn chớp xanh chớp đỏ trên giàn máy điện toán, từ mainframe [2] xuống Unix. Ðọc và thực hành. Thấy phòng Lab người mà thương cho đất nước mình. Nơi này là trung tâm của một hệ thống gọi tên là PICS, Product Inventory Consolidated Systems [3] . Hệ thống điện toán này giúp những phần hành trách nhiệm của công ty biết về số lượng hàng hóa tồn kho, xuất kho, số lượng khách hàng đặt, kho nào còn, kho nào hết, kho nào dư kho nào thiếu để công ty có thể điều động số lượng cung ứng kịp thời.

Mỗi đêm, các báo cáo từ khắp các tiểu bang sẽ được chuyển về trung tâm gồm giàn máy IBM OS 370, để máy thu thập tất cả những dữ kiện, sau đó, đúc kết thành những báo cáo hoặc cập nhật hoá số lượng tồn trữ hay xuất nhập của trên một trăm kho hàng khắp nước Mỹ.

Những ngày đầu với AT&T. Ngày xưa, trung đội trưởng mới ra trường còn có trung đội phó thay mặt lo dùm. Bây giờ, ông là lính mới tò te, mà vũ khí chỉ là mớ kiến thức của bốn năm đại học. Ra trận, ông có bạn bè đồng đội, nhưng ở đây, ông chiến đấu cô đơn.
Không ai có thể giúp ông được. Ông cũng không có thể nhờ ai giúp được. Gọi là team, có nghĩa là đội, trong đó, người ta ràng buộc với nhau, nương tựa lẫn nhau, vui buồn đều chia xẻ với nhau, tuy nhiên, thực tế thì khác. Ai cũng lo phần nấy. Và nếu có câu hỏi, thì chỉ là câu hỏi tổng quát. Chứ không ai có thì giờ để làm dùm hay ngồi đọc từng giòng để sửa chữa dùm.

Khi nhận dự án từ nhóm trưởng, trước hết, ông được Debbie nói sơ qua về mục đích, yêu cầu, để ông có một khái niệm về công việc phải làm. Sau đó cô nàng trả lại cho ông vai chánh với thời hạn bao lâu phải hoàn thành. Ðó là lệnh hành quân không hơn không kém.

Ông phải chiếm mục tiêu. Ông phải thanh toán chiến trường. Ông phải chiến thắng. Nếu không, ông là tên bại trận. Và dĩ nhiên, sẽ bị đào thải.

Như vậy, ông cần phải cám ơn ngôi trường cũ.

Phải cám ơn ông giáo sư về Information System mà sinh viên quen gọi là hung thần hay sát thủ đại hiệp. Không ai học ngành điện toán có thể chạy thoát được cái búa của ông ta. Bởi ông ta là giáo sư chánh của phân khoa điện toán. Ông gieo ác mộng cho đám sinh viên năm cuối.

Ông chú trọng vào thực tế hơn là lý thuyết. Ông đặt ra những điều kiện khắc nghiệt cho dự án cuối năm.

Ít khi thấy ông cười. Ở ông, toát ra vẻ kiêu hãnh. Ông Nguyễn nghe nói ngoài chức vụ giáo sư, ông còn là một consultant [4] cho một công ty lớn. Với ông, thật khó có thể lấy điểm cao. Ðược B là mừng hết lớn.

Ông làm sinh viên bất mãn đến nỗi có tay đã vẽ hình một người đang tròng sợi dây thòng lọng vào cổ sinh viên với nụ cười thỏa chí trước văn phòng của ông ta.

Bây giờ, ông Nguyễn mới cảm thấy cám ơn ông giáo sư này.

Nhờ ông, mà dự án đầu tiên ông đã làm cho bà trưởng phòng ngạc nhiên không ít. Bà ta đã phê trên tấm giấy nhỏ kèm trên tập dự thảo:

Tan: Công trình rất xuất sắc. Cám ơn Tan. Hãy tiếp tục làm tốt như vậy.
Debbie: Chuẩn bị một buổi thuyết trình cho Tan.

Lời phê của bà trưởng phòng, tức department chief, coi 4 nhóm dưới quyền, đã làm ông Nguyễn tá hỏa tam tinh. Dự án đầu chưa hết lo, thần trí chưa hết căng thẳng, giờ lại thêm một nỗi lo khác nữa. Lần này chắc chắn phải to lớn gấp trăm lần hơn. Tiếng Việt khi nói trước đám đông, ông còn nói lập bập, ấp úng không thành lời thành tiếng huống hồ tiếng Anh tiếng Mỹ.

Như vậy, lại thêm một lần xông pha. Ông chưa kịp vui mừng để nói với vợ ông về niềm vui, giờ thì đầu óc cứ quẩn quanh ám ảnh hoài buổi thuyết trình sắp đến. Không phải người tham dự là những đồng nghiệp của ông, hay ít ra, cùng một ngôi lầu, trái lại, theo Debbie cho biết, còn có một số đại diện đến từ các nơi khác.

Cứ thế, hết khó khăn này qua khó khăn khác tiếp tục chặn ngang cuộc hành trình cơm áo. Ông chẳng khác người lữ hành cô đơn, chiến đấu trong thầm lặng. Những đêm mệt lả trở về nhà, miệng đắng khô nhai miếng cơm vợ để dành mà buồn muốn khóc. Những giờ trước máy moi hết kiến thức, sử dụng hết phần não bộ để cố hoàn thành công việc. Không phải 8 tiếng đồng hồ là xong nhiệm vụ mà còn theo người về nhà bám mãi không rời trong trí não. Không phải rời hãng là phủi tay. Trái lại, không muốn nhớ cũng phải nhớ. Tại sao thử mãi mà lời giải vẫn sai. Phải dùng lệnh (command) nào để giải quyết. Hình như mình quên dấu chấm. Hình như mình thiếu ELSE sau IF. Nhưng để bù lại là niềm vui khi không nghe ai than phiền, hay gặp rắc rối. Cũng có đôi khi, vào nửa đêm có chuông điện thoại reng, báo cáo chương trình (program) bị thất bại, cần phải sửa gấp. Ông càng học nhiều điều mà nhà trường không bao giờ dạy, trong đó có lẽ có một điều tối kỵ là đừng bao giờ tách rời khỏi đám đông, trái lại phải hòa theo đám đông, đừng làm gì hơn, hoặc kém.

Thật vậy, trước đây, ông cứ nghĩ là, để chứng tỏ mình có khả năng, ông làm nhanh, ông đánh nhanh, ông tiến chiếm mục tiêu nhanh.

Một dự án kỳ hạn hoàn tất một tuần, thì chỉ ba ngày ông đã làm xong.

Debbie trố mắt.

Carol trố mắt.

Mọi người trố mắt.

Có kẻ lắc đầu.

Vì phép lịch sự họ không dám nói thẳng.

Ðể ông học được bài học đầu tiên.

Bài học về team.

Không những ở AT&T mà Lucent và GLOBAL IT, những công ty mà ông được may mắn làm việc.

Người ta không thích đánh mạnh đánh mau.

Người ta muốn từ từ thong thả.

Mi mà nhanh thì ảnh hưởng cho những đồng nghiệp khác.

Mi mà nhanh thì cả dự án chung bị hỗn loạn, sẽ không đúng theo dự trù.

Bởi chúng ta cùng chung một team.

Chúng ta cùng nương tựa lẫn nhau.

Chúng ta chẳng khác chiếc xe

mọi bộ phận phải ăn khớp.

Trời ơi, ông đã phạm một lỗi mà ông không biết.

Ông mới hiểu trong thế giới cổ trắng này có những điều rất phức tạp.

Không phải giản dị như ông tưởng.

Cuối đường

Ðầu năm, thêm một nhân viên mới nữa được tuyển. Như vậy, tình trạng tài chánh của hãng chắc phải khả quan lắm và mọi người hy vọng trong tương lai sẽ không còn bị ám ảnh bởi cái búa layoff hay giảm-người như họ đã từng nghe từ những tin đồn đại. Cô nàng Karen dẫn người nhân viên mới đến từng phòng để giới thiệu. Vẫn là những câu nói xã giao lịch sự như thể thân tình từ lâu lắm: Ðây là Lisa, người bạn mới của chúng ta, đây là Tim, Ed, Mike, Elizabeth, Tan Nguyen... Hân hạnh, người nhân viên mới đưa tay bắt mỗi người. Mấy ma cũ cũng đáp lễ. Rất mừng được làm chung với bà. Vui mừng được có thêm một người bạn là bà. Ðến phiên Tân cũng vậy. Vẫn cái điệp khúc quen thuộc ngọt như đường phèn mà ông đã dùng mấy năm nay để chào mừng một người mới đến, để rồi sau đó mạnh ai nấy làm, mạnh ai nấy to nhỏ với nhau. Người nhân viên mới - Lisa - bắt chặt bàn tay Tân nói: Thank you so so much. Tân có thể nhận ra những vết son khô trên hai bờ môi của bà ta. Karen lại giới thiệu tiếp: Ðây là ông Tân, người sẽ hướng dẫn bà đấy. Có gì bà cứ cầu cứu ông. Lần này, bà Lisa càng tỏ ra lịch sự hơn bao giờ. Bà lại đưa tay bắt tay ông thêm một lần nữa: Thank you so so so much...

Bà Lisa vào khoảng trên dưới 40, Tân đoán vậy. Dáng thấp, hơi mập. Gương mặt nhỏ, cằm nhọn choắt, với đôi mắt tô than quá đậm như hai con đỉa trâu nằm vắt ngang, cùng cặp môi mỏng. Nói tóm lại là sắc đẹp của bà ở dưới mức trung bình. Không ai có thể ngờ nỗi là ở con người ấy, là cả những bồ chữ nghĩa khoa bảng. Bà có một bằng Ph.D về giáo dục, làm nghề dạy học, bị layoff, và nhanh chân đổi nghề bằng cách trở lại trường lấy Cao học về Ðiện toán.

Bà là một người Mỹ gốc Ý. Không chồng con. Hiện sống với bà mẹ già ở một khu ngoại ô bên Nữu ước. Mỗi ngày bà lái xe qua hầm Lincoln giữa hàng hàng chiếc xe nối đuôi dường như bất tận, đến hãng ít nhất phải một tiếng rưỡi đồng hồ.

Ngày đầu tiên, bà được giao cho một việc làm rất dễ. Nhưng bà đã hé lộ sự thật về kiến thức của bà. Bà mang những tờ giấy đi hỏi từng người. Tại sao? Tại sao? Một lần, họ sẵn sàng chỉ dẫn tận tình. Hai lần hơi lơ là. Ba lần, chấm dứt. Bà tuyệt vọng trước cái công việc chưa tìm ra lời giải mà thời hạn đã cận kề. Mỗi đêm bà ở lại hãng tới một hai giờ sáng. Và bà chỉ còn một cách là bám víu vào Tân. Nhưng ông thì cũng không làm gì hơn. Ông không thể viết lại, thay lại hay sửa chữa toàn bộ những gì bà đã làm. Ông càng hiểu về con người thật của bà và lý do tại sao người ta lại mướn bà. Bởi vì bà nói quá hay. Bất cứ vấn đề gì bà cũng nói được, và nói có lý. Nhưng bây giờ, mọi người mới hiểu là bà chỉ biết nói mà không biết làm. Mà chủ chỉ cần người làm, không phải cần người nói. Họ bắt đầu xầm xì sau lưng bà. Trong các buổi họp, mỗi lần bà đứng dậy phát biểu, họ nhìn nhau nhún vai, lắc đầu. Dường như bà không bao giờ biết được những gì xảy ra xung quanh, bà cứ vẫn tiếp tục hỏi và nói. Bà muốn đóng góp cho tổ chức hay bà muốn chứng tỏ là kẻ học rộng bằng cấp cao. Bà viện dẫn sách vở kinh điển. Bà trích dẫn từ chương. Bà nói quên cả giờ nghỉ giải lao, bắt mọi người mệt lả theo bà. Rõ ràng bà là một tai ương không hơn không kém. Cuối cùng, cả nhóm dồn bà vào chân tường. Con Carol bắt đầu giao việc làm khó hơn nhưng thời hạn hoàn tất lại ngắn hơn. Nó gặp riêng ông cảnh cáo đừng giúp đỡ gì bà Lisa nữa. Khi nói, hàm răng nó nghiến lại, đôi mắt như long lên. Tân gật đầu hứa. Ông biết ông không thể tách rời khỏi tổ chức. Ông vừa thương vừa giận bà Lisa. Bà đã không theo bánh xe của guồng máy. Bà đi ngược lại. Và dĩ nhiên trước sau bà cũng phải bị đào thải. Rõ ràng con mồi đang bị vây bủa bởi những tay thợ săn tinh quái, nham hiểm. Cứ mỗi lần thấy bà, lòng ông lại đâm thương hại khôn tả. Ông nhớ lại những ngày tháng đầu tiên của ông tại hãng, ông cũng phải bơ vơ như thế. Ngôn ngữ, tuổi tác, màu da đã bắt ông đứng hẳn bên lề. Ông thấy như in cái nhíu mày của con Sylvia, nhóm trưởng, mỗi lần ông hỏi nó một câu hỏi. Ông cũng nhớ lại những đêm thức trắng để cố gắng hoàn thành công việc cho đúng với thời hạn giao nạp. Ông đã từng ngồi lặng trong phòng lab, để tủi thân cho một con ngựa lạc đàn. Phải, nếu nói về nỗi bơ vơ, thì ông phải bơ vơ gấp ngàn lần nỗi bơ vơ của bà Lisa này nữa. "Phải chiến đấu, bà Lisa". Ông muốn khuyến khích bà, muốn nói với bà về kinh nghiệm của ông. Nhưng ông không thể. Con ngựa đau một tàu nhịn cỏ. Ở đây, không có ai nhịn để nhìn nỗi đau của một người. Mà trái lại, là nỗi sung sướng hả hê..

*

Bây giờ phòng Lab chỉ còn Tân. Người quét dọn phòng ốc đã đẩy chiếc xe rời phòng. Tiếng máy điều hòa rì rầm không ngưng nghỉ. Những giàn máy chớp đèn xanh đỏ. Những rừng dây cable chằng chịt trên vách tường. Chúng là huyết mạch của kỹ thuật gọi là distributed systems. Bởi chúng sẽ nối những modem cao tốc đến mười phương địa cầu để nhận và truyền bao nhiêu dữ kiện vô tri vô giác. Còn nữa. Còn những máy in, những máy điện toán cá nhân (PC), những máy UNIX đêm cũng như ngày không bao giờ tắt, ghi lại những đường đi nước bước của mọi sản phẩm của công ty trên khắp quả địa cầu. Thì Tân nghe tiếng động. Ông biết là bà Lisa. Ông rủa thầm: Lại con mẹ này nữa, rồi tiếp tục nhìn vào màn ảnh. Bà Lisa nói:

“Chào Tan. Tan chưa về sao?"

Tân nghe giọng nhỏ nhẹ, thật tội nghiệp.

“Con chó này quá cứng đầu, Lisa à.”

“Nhưng ông là chủ của nó rồi mà.”

“Nó không bao giờ chịu nghe tôi.”

“Thì trừng trị nó đi Tân.”

Bà Lisa tinh nghịch nói. Ông cảm thấy mình hơi tàn nhẫn. Cái tàn nhẫn đối với kẻ bị thua cuộc. Dù muốn dù không, ông cũng là kẻ ăn nhờ ở đậu. Ông đến đây là do lòng thương hại của người bản xứ, trong đó, người đàn bà này là một phần tử.

“Lisa còn đến trường không?”

“Vâng, Tôi vẫn còn đến trường. Tôi cũng học cái môn mà Tân đề nghị. Có diều ông thầy dạy chỉ biết lý thuyết suông...”

“Như vậy Lisa có thâu gặt được gì không?”

“Cũng hơi hơi.”

Bây giờ bà Lisa nhìn Tân, đôi mắt bà van lơn:

“Tôi có một điều muốn nói với Tân. Tân có muốn nghe tôi nói không?”

“Vâng, Lisa cứ nói đi. Tôi đang nghe đây.”

“Tôi muốn nhờ Tân giúp tôi. Tôi sẽ trả tiền.”

Tân đâm giận dữ.

“Lisa nghĩ sao mà nói như vậy. Dù sao tôi với Lisa là những người cùng nhóm...”

“Tôi xin lỗi Tân. Bởi tôi không có ai để giúp đỡ tôi trong lúc này.”

“Giúp đỡ? Tôi giúp đỡ Lisa thì ai giúp đỡ tôi?”

Lisa không biết trở ngại tôi đã gặp còn to lớn gấp trăm ngàn lần bà gặp hôm nay nữa.

Bà Lisa nhìn Tân với đôi mắt mờ lệ:

“Xin Tân đừng hiểu lầm tôi. Người Mỹ thường sống sòng phẳng.”

Tân hơi chùng lòng. Sự thật là vậy. Ðông phương và Tây phương vẫn không bao giờ gặp nhau. Người Tây phương họ sống bằng lý trí nhiều hơn tình cảm. Bởi vậy hôm nay, người nghị sĩ Mỹ một thời là tù binh, đã là người tiền phong cổ xúy cho việc bang giao. Với ông ta, bây giờ là vai trò của đất nước ông, lá cờ của xứ sở ông, sức mạnh về kinh tế của Mỹ trong tương lai. Ðến đây, đôi vai của bà Lisa bật run.

“Tân hẳn biết cái dự án tôi vẫn chưa làm xong. Chắc tôi sẽ bị đuổi. Tôi muốn giữ cái việc làm này, nhưng không một ai cho tôi một cơ hội. Tôi bị bỏ rơi. Dù sao tôi vẫn là đàn bà...”

Lời thổ lộ của bà là lời thổ lộ của kẻ bị thua cuộc. Từ chương kinh điển đôi khi không thể giúp đỡ gì thực tế. Bà Lisa đã thấy được sự thật. Nhưng bây giờ thì đã quá muộn. Bà đang chới với bấu viú như một người đang cố tìm chiếc phao. Chiếc phao ấy là ông thầy dạy về ngôn ngữ điện toán Cobol ở một trường đại học cộng đồng. Nhưng ông thầy đã không thể giúp gì hơn. Và cuối cùng, chiếc phao là ông. Lúc này ông chỉ cần một cái nắm tay, một lời ngọt ngào, là ông có thể trở thành một gã đàn ông của bà ta. Nhưng ông đã chống cùng cơn cám dỗ. Lý trí cho ông biết về cái việc làm, mái nhà, chiếc xe, cho cả gia đình. Bởi vậy ông đã đứng dậy, giả vờ quên một cái gì đó, để tránh đôi mắt màu xanh mời mọc:

“Xin lỗi Lisa tôi cần phải trở về phòng. Có một vài thứ tôi cần tìm.”

*

Hai ngày hôm sau, Tân không còn thấy bà Lisa như thường lệ nữa. Khi qua phòng làm việc của bà, bảng tên vẫn còn gắn trên vách, nhưng trong phòng thì trống trơn. Con Karen nói là bà đã nhận giấy sa thải hôm qua. Mắt nó sáng lên, ánh một vẻ vui mừng. Hết rồi những lời xầm xì. Hết rồi những lời cảnh cáo. Từ đây ông yên tâm không còn bị săn đuổi nữa. Nhưng cớ sao ông lại buồn ghê gớm. Như thể ông đã bị mất mát một cái gì đó rất thân yêu. Ừ thì toán, thì đội ngũ, chúng ta phải nương tựa lẫn nhau, giúp đỡ lẫn nhau. Vui cùng hưởng, buồn cùng chia. Ông cảm thấy mình như một kẻ đồng lõa vào một tội ác.

Pho tượng biết suy nghĩ

Trong một cõi gồm những kẻ làm việc bằng trí óc ấy, ông Nguyễn như một bóng hình không đậm nét, mờ nhạt giữa đám đông. Có lẽ tại vì tuổi tác của ông. Và cũng có lẽ vì ông đến từ phương trời lạ lẫm, nơi mà ngôn ngữ, truyền thống lễ giáo phong tục tập quán đều khác biệt, để ông khó có thể hoà đồng. Ông dửng dưng trước ngày sinh nhật của mình, khi người ta chúc mừng ông happy birthday to you. Ông không thích nghi với những buổi tiệc tùng do hãng hay nhóm tổ chức. Miệng ông câm khi họ bàn tán về thể thao hay thời tiết hay một show truyền hình quen thuộc. Có những lần cả nhóm kéo tới một nhà hàng để tiễn đưa một người trong nhóm có việc làm khác, hay nhân lễ Giáng Sinh v.v... ông ngồi bên cạnh họ không nói năng. Ông cảm thấy bứt rứt khi một đứa trong bọn lôi ra cái máy tính, tính số tiền mỗi người phải trả từng cent. Ðôi khi ông muốn góp vào một câu chuyện để chứng tỏ ông hoà đồng cùng đám đông, nhưng ông cảm thấy câu chuyện mình quá nhạt nhẽo, không gây cho họ chú ý. Rõ ràng ông là kẻ đứng bên lề. Ông là một cù lao cô độc. Ông là con hổ con beo mất rừng mất núi. Ông chỉ còn có căn phòng, bốn vách tường thấy bóng ông hẩm hiu.

May mà ông có nỗi đam mê ở công việc mình làm. Ông thích điện toán. Ông xem việc làm của mình chẳng qua là tham dự vào một cuộc đấu trí có tiền thưởng không hơn không kém.

Như vậy, ông đã sống sót qua 7 năm với nghề thảo chương viên (programmer) này.

Ông hiểu rằng, dù ngôn ngữ điện toán có thay đổi cùng thời gian, nhưng qui luật điện toán vẫn là một. Vẫn là input, processing và outputInput là những dữ kiện mà ta có. Ta dùng ngôn ngữ điện toán (language [5] ) để viết, sau đó, máy sẽ chạy nhờ chương trình của ta để tạo thành output, tức kết quả mà khách hàng yêu cầu, hay ít ra có giá trị cho người khác...

Bảy năm. Từ khi bắt đầu, dùng ngôn ngữ assembler, loại ngôn ngữ rắc rối, rườm rà nhất, hoàn toàn không thân mật cũng không English như IF or ELSE rồi đến Cobol, rồi C, rồi C++, rồi SHELL, rồi IMS, rồi CICS, rồi ISAM, Easytrieve rồi ABAP/4... Rồi mainframe, rồi Unix, rồi PC, rồi NT rồi SAP... Trời ơi ! Trời ơi, bao nhiêu ngôn ngữ ông phải để trong bộ bán cầu não, khi nó đã quá dày những hận thù, những rượu chè, đàn bà, súng đạn, những ngất ngư mê mệt của ngày tháng thanh xuân, của tù tội của vượt biển hãi hùng. Lại cộng thêm chữ Anh chữ Mỹ. Lại cộng thêm số điện thoại, số an sinh xã hội hay những password [6] của thẻ thiếu chịu, hay của cả chục hệ thống điện toán mà ông phụ trách... Như vậy, mà ông phải nhớ, không nhớ thì phải ráng. Ráng trong khi ngày càng lúc càng kéo bóng xế của đời người.

Thật vậy, thử mổ xẻ phân tích tại sao tuổi già lại hay bị lãng trí, hoặc hay quên. Thử nhìn vào cái máy siêu điện toán, mỗi giây có thể thực hiện cả triệu phép tính, nhưng chắc gì nó lại không bị lỗi. Không phải vì nó tính sai, nhưng vì cặn bã còn sót, còn bám. Bởi vậy có một lệnh (command) tên "refresh" để hốt rác hốt bụi hốt những phế thải khỏi máy trước khi dùng. Bởi vậy có những lệnh (command) như INIT tức initialize để dọn bãi trước khi người programmer bắt tay vào những việc khác. Bởi vậy máy mới ít phạm lỗi hơn là máy cũ.

Còn con người. Vẫn bộ não ấy. Vẫn trí óc ấy. Cứ nhét hoài, cứ dồn hoài cái gọi là cuộc đời, và biết bao nhiêu điều xảy ra khi hắn bắt đầu khóc mấy tiếng oa oa. Tức nước thì vỡ bờ. Ở đây không vỡ bờ mà làm chậm lụt, làm mất dần tinh tế thông minh.

May mà con người còn có một ngôn ngữ khỏi cần phải học, phải nhớ, tự động phát ra khỏi cửa miệng, khỏi cần cắn lưỡi cắn răng khỏi cần nhăn trán suy nghĩ. Ðó là tiếng Mẹ đẻ của hắn.

Nhưng mà hắn lại ít dùng, ông lại ít dùng. Có khi suốt cả ngày 8 tiếng đồng hồ, ông chưa nói ra một tiếng Việt. Có khi nói ra rồi lại giật mình. Tại sao mình lại dùng chữ Việt chứ. Hèn gì thằng Gary trố mắt ngạc nhiên. Có lẽ vì lịch sự nó không hỏi sorry I can't understand what you were saying about... Ôi, tiếng Việt. Ông đã quên nó ban ngày, nhưng chiều về, hay ban đêm, ông nhớ nó, ông dùng nó, ông thì thầm, ông ru em, ông hát, ông say sưa kể trong điện thoại, ông cãi, ông la, ông đọc, ông cảm nhận... Nó có thể diển tả tâm sự của ông. Nó không phải để cái lưỡi vào giữa hai hàm răng cắn lại khi phát âm tiếng th. Nó thật giản dị dễ dàng như bài ca của Phạm Duy:


Tôi yêu tiếng nước tôi, từ khi mới ra đời...
À ơi, mẹ hiền ru những câu xa vời...

Có ở trong hoàn cảnh của một kẻ bị mất tiếng nói, mới càng thấm thía được ý nghĩa của bài hát. Hắn cảm thấy mình thua thiệt hay không có chỗ đứng.

Dường như các cấp lãnh đạo của công ty biết được niềm u uẩn của những nhân viên gốc thiểu số nên thường xuyên mở những khóa học về Diversity, tức dị biệt về chủng tộc, màu da trong một cộng đồng lớn. Họ bắt buộc mỗi nhân viên phải tham dự hai khoá: Diversity I và Diversity II.

*

... Phòng học quá rộng. Bốn góc được trang bị bằng 4 máy truyền hình cỡ bự. Ngoài phòng đã kê sẵn chiếc bàn dài phủ khăn trắng với cà phê, bánh ngọt điểm tâm. Các vị giảng sư đều được mướn từ những nhóm consultant danh tiếng chuyên về môn Diversity - dị biệt trong một tập thể đa chủng. Không biết họ có thể đánh tan những áng mây u ám trong tâm trí của ông hay không. Bởi vì mục đích của khoá học này không phải là tìm một lời giải cho vấn nạn: chia rẽ, phân ly, nghi kỵ từ ngưòi này qua người khác, tập thể này đối với tập thể khác, hay rộng hơn, giống dân này đối với giống dân khác hay sao?

Ðầu tiên, vị giảng sư kêu mọi học viên viết tên họ trên tấm giấy dán lên ngực áo, và yêu cầu tự giới thiệu tên họ, kinh nghiệm, tại sao lại chọn môn này mà học... Lúc đó, một cô gái đã đến bên ông hỏi bằng tiếng Anh: xin lỗi có ai ngồi ở đây không? Ông ngờ ngợ cô gái ấy là người Việt Nam. Ông bảo không có ai hết, cô có thể ngồi. Mái tóc chớm vai, đôi mắt tô than, và một gương mặt thanh tú. Bây giờ cô gái viết tên trên tấm giấy nhỏ: Kim Nguyen.

Thì ra cô gái là đồng hương với ông. Ông nghe niềm vui không đâu. Cô bạn học ơi, cô có biết tôi vui lắm không. Trưa nay tôi và cô sẽ ngồi ăn chung một bàn, và chúng ta sẽ cùng nói cho nhau nghe về nghề nghiệp, thú vui, hay có thể là văn chương, no nê tiếng xứ mình. Chúng ta hẳn phải thân thiết nương tựa nhau hơn, bởi vì trong số đông đảo, chỉ có hai đứa chúng ta thuộc thành phần thiểu số... Ngoài tình đồng hương, chúng ta còn có cả tình đồng nghiệp... Phải không cô bạn VN? Ðiều này khiến ông vui mừng để chào hỏi, bằng ngôn ngữ mẹ đẻ: "Chào cô, cô làm ở bộ phận AT&T nào?". Nhưng người con gái đã trao cái nhìn ngạc nhiên đến nhói cả tim ông: "I am sorry, I don't understand what you say". Trời ơi, ông tối tăm mày mặt. Câu trả lời như một chiếc gáo nước xối mạnh vào mặt ông. Mặt ông nóng bừng. Ông nói bằng tiếng Anh: "I am sorry too". Cổ họng của ông đắng, như nghẹn. Ông muốn rời lớp lập tức.

Nhưng ông vẫn ngồi lại, bên cạnh cô gái, một người Việt Nam trăm phần trăm. Hai tên Việt Nam Kim Nguyen và Tan Nguyen vẫn được thấy rõ bên cạnh Elizabeth, Rich, Ed, Bob, Tina... Ông đã ngồi để đau đớn vì khoảng cách diệu vợi vô cùng của hai người. Không ai nói với ai một lời. Kể cả tiếng Mỹ. Kim chỉ nói với người bạn gái Mỹ bên trái nàng. Nàng nhún vai. Cười nói rất tự nhiên như một người Mỹ chánh gốc. Hay là nàng sợ cái tiếng Việt Nam, muốn xa lánh, chối bỏ. Hay nàng khinh rẻ một người đồng hương. Hay tại vì gia đình đã không dạy nàng, muốn con họ như một người bản xứ chánh gốc? Dù thế nào đi nữa, ông cũng cảm thấy một nỗi mất mát ghê gớm. Trời ơi, một bầy chim phân ly tứ tán, ngỡ bây giờ tụ đàn, để che chở thương yêu nhau, nhưng hình như lại càng xa cách nhau hơn bao giờ. Người lớn thì phân rẽ, con cháu thì bỏ cội rễ như lời ca ảo não của ai qua bài thơ phổ nhạc của Hà Huyền Chi: "Ðứng đây ngắm xuống bầy con. Lơ là tiếng Việt để yêu ngôn ngữ người..." Ông đã nhủ thầm là hãy cố quên, cố xem đây là một lớp học như mọi lớp học khác mà ông có mặt, và người bên cạnh như một người Mỹ xa lạ nào đó, nhưng cuối cùng ông nghe vị cay đắng thấm tê đầu lưỡi. Ông đưa mắt nhìn quanh cố tìm một chỗ ngồi khác. Không còn chỗ nào trống...

*

... Ông thầy Mỹ đen ngước đôi kính gọng vàng nhìn đám học trò đủ hạng tuổi, hạng nghề, nam cũng như nữ, chào, tự giới thiệu, rồi nói:

"Ở bốn góc phòng có treo bốn tấm giấy lớn. Góc phía mặt tôi dành cho những ai cảm thấy đến với khoá học này như là tù nhân (prisoner). Ðằng góc trái, là dành cho quí vị nào muốn xem khoá học này là người đi nghỉ phép (vacationer)... Góc phía phải sau tôi là chỗ dành cho những ai nghĩ rằng sẽ tìm được vài điều hữu ích gì đó qua ngày học hôm nay, nghĩa là người muốn khám phá điều gì (explorer). Nào, quí vị nghĩ gì buổi học hôm nay, quí vị cứ đến chỗ tấm giấy định sẵn, thảo luận tại sao, rồi viết lên trên giấy. Quí vị có mười lăm phút thảo luận..."

Ông trố mắt xem cuộc chơi. Xem thử 40 người đàn ông đàn bà, thanh niên thiếu nữ, nhân viên cấp cao, hay cấp thấp, nghĩ gì về cái chữ Diversity. Bài Diversity I đã dạy cho học viên hiểu về cái độc hại của sự phân rẽ qua những ví dụ về stereotype, tức là những thành kiến mà sắc dân này đối với sắc dân kia, nhóm người này đối với nhóm người khác, già đối với trẻ, trẻ đối với già, đàn ông đối với đàn bà và ngược lại, đen đối với trắng, trắng đối với đen hoặc đối với da vàng. Học viên đã tự do viết những tiếng lóng, lời tục, lời xấu, ác ý. Họ viết gì về Việt Nam? Học giỏi. Lái xe không biết luật. Ăn bám. Ký sinh. Họ viết gì về đen. Thể thao. Lười. Ðẻ con nhiều để lãnh trợ cấp. Họ viết gì về trắng. Thông minh. Bóc lột. Tham lam vô đáy. Họ nói gì về người già? Ðè đám trẻ. Lương cao nhưng làm việc không năng suất... Như vậy làm sao lại gom tất cả sức lực của tập thể để trở thành một sức mạnh chung ở cái xứ tạp chủng như xứ Mỹ này? Bài học đưa cái kết luận: Chỉ có cách là phải lột bỏ những thành kiến ra khỏi máu huyết. Và cuối cùng, cách giải quyết có vẻ như con trẻ. Từng người một xé, chà đạp trên tờ giấy không thương xót. Cả hội trường rộn lên tiếng đạp, tiếng xé, tiếng cười. Mấy tay trẻ háo thắng, hết làm tội tình tờ giấy này, chạy đến tờ giấy khác, hành hạ tiếp.

Giờ đây, bài học Diversity II này đã không họ bắt họ chà đạp, phỉ nhổ, mà trái lại, giúp cho họ nhận thức được sự độc hại của thành kiến qua kinh nghiệm bản thân. Ông nóng lòng tìm hiểu. Ông cố gắng mở lớn đôi mắt, căng đôi tai. Cả phòng học bừng lên rộn ràng bởi sự chọn lựa. Nhóm tù nhân là nhóm được học viên chọn đông đảo nhất. Kim là người trong nhóm ấy. Thì ra cái học vẫn là một cực hình cho mọi người. Kế đến là nhóm nghỉ phép. Còn ông, ông chọn nhóm thứ ba, tức là nhóm dành cho những kẻ muốn tìm một lời giải ở khoá học. Vâng, ông muốn lắm. Lòng ông bây giờ cũng ngổn ngang lắm. Có những điều mà cả những ông thầy tài giỏi bậc nhất cũng không thể hiểu nổi ở một người Việt Nam này. Khi chọn, ông đã đau khổ liếc mắt nhìn người con gái đồng hương. Em là tù nhân còn tôi là kẻ đi tìm. Vâng, tôi đi tìm đây. Tại sao ngay cả hai người cùng màu da, cùng tiếng nói lại không nhìn mặt nhau, lại coi nhau là hai kẻ xa lạ? Tại sao? Tại sao? Ông đã đứng yên bên tấm giấy, mà tiêu đề viết bằng mực xanh: Explorer. Ông phải nói gì đây cùng ba người học viên xa lạ. Tại sao? Tay điều hợp viên được bầu, hỏi từng người. Ðến phiên ông, ông nói, tại vì tôi muốn tìm hiểu tại sao. Một bà học viên khác: Tôi cũng vậy. Tôi muốn tìm cái lời giải trong một tập thể hỗn độn này.

*

Bây giờ từng nhóm một xách ghế ra giữa phòng. Ông giảng sư ngồi ở giữa, hỏi ý kiến từng người về nhóm chọn lựa và yêu cầu học viên giới thiệu về mình, thêm một đôi lời về kinh nghiệm dị biệt trong đời sống họ. Tiếng cười nói hay gay gắt vang động. Tại sao tao cảm thấy là tù nhân tội đồ khi đi học khoá này? Bởi vì tao chán phải nghe hoài cái điệp khúc kỳ thị, trắng với đen, đen với trắng. Vâng, tao là trắng. Người ta bảo tao là sắc dân được ưu đãi, là white male, nhưng tao được ưu đãi cái gì? Mệt óc lắm rồi. Một tay đàn ông giận dữ phát biểu. Tiếng vỗ tay tiếp theo. Vâng, tao cứ phải nhét trong đầu những điều tao không muốn nghe, như vậy tao không phải là tù nhân sao? Một người khác phát biểu. Một người trong nhóm nghỉ phép có ý kiến: "Tôi thì muốn bỏ quên trăm cú điện thoại đến điên khùng..." Cứ thế mỗi người đều phải nói lên ý nghĩ của mình. Còn ông thì sao. Ông phải nói gì để gọi là góp vào cái kinh nghiệm của một nền dị biệt đau lòng của lịch sử từng xảy ra trên đất nước ông. Việt Nam xa cách. Việt Nam mấy mươi năm đánh nhau, chém giết, Việt Nam Trịnh Nguyễn phân tranh, vua chúa hàng trăm ngàn cung phi mỹ nữ, cung cấm giả dối lường gạt vẫn nằm yên dưới bóng đêm ma quái, và Việt Nam ngay trong phòng học này hai người không nhận ra nhau, xa lạ, sững sờ... Nhắm mắt lại, cầu Trời, cái câu hỏi đen đặc như vết máu bầm được một liều tiên dược. Giữa phòng, cuộc thảo luận góp ý vẫn sôi nổi. Thì ra mỗi người vẫn là một cù lao, vẫn là một thái cực. Huống hồ là một tập thể, hay nói rộng ra, là một dân tộc. Bởi vậy, hãng mới trả một số tiền quá lớn cho giảng sư, bao tiền sách vở, ăn ngủ miễn phí, bắt nhân viên phải học. Họ đã hiểu, sự thành công hay thất bại của một công ty trên ba trăm ngàn người, tùy thuộc vào sự chia rẽ hay kết đoàn. Họ muốn ba trăm ngàn người là ba trăm ngàn người lính, cùng trong bộ đồng phục, và sắc cờ không hơn không kém.

Ðến lượt nhóm "Explorer" xách ghế vào giữa phòng. Bốn chiếc ghế lẻ loi. Mấy mươi người còn lại ở xung quanh phòng đang nhìn vào. Lại một câu hỏi thường lệ của ông giảng sư: Tại sao quí vị lại thích explorer. Mỗi người phát biểu. Ðến phiên ông. Thưa các bạn, tôi đến từ Việt Nam, miền Nam Việt Nam, ở đó dị biệt đã hành hạ chúng tôi, dân tộc chúng tôi. Tư bản. Xã hội. Cộng sản. Tự do. Trên triệu người tuổi trẻ chết cũng vì Diversity. Không ai chịu nghe, chịu san sẻ, tha thứ, hay cảm thông. Không ai chịu nhận lỗi của mình, mà trái lại họ cứ nghĩ họ là đúng, và bắt người khác phải tuân phục... Ông muốn trút tất cả những uẩn ức nhưng ông không thể nói nên lời. Bao nhiêu vấn nạn của người Việt lưu vong. Sự xa cách buồn thảm của thế hệ này và thế hệ khác, những nhân danh, những lừa mị, những bôi nhọ, những bóng quạ bóng dơi. Những người ngày xưa hèn mạt, sợ chết, lòn cúi, chưa bao giờ biết mặt trận là gì, cái chết là gì, những kẻ ở đằng sau để mà chạy trước... Họ bây giờ lại thêm một lần hô hào... Và nếu ai đi khác đường lối của họ, là họ lập tức phun ra những nọc độc... Ðể con ông sợ khi phải nhắc đến Việt Nam. "Ba à, sao con thấy người Việt mình chửi nhau quá hả ba?" Thằng con của ông có lần đã hỏi ông như thế. Nó nói tiếp: "Ðến đâu con cũng thấy họ chửi". Ông đau khổ, lòng rối bời. Ông nghẹn lời. Ðâu có ích gì để mấy chục người bản xứ này nghe và có cái nhìn không tốt đối với đồng bào ông... Cuối cùng ông chỉ biết khẩn cầu: Please. Give me a solution.

Cả phòng im phăng phắc. Sự thật đã khiến họ động lòng, hay chính cái kinh nghiệm của cá nhân ông, đã khiến họ bừng thức dậy bởi cái khốc hại của Diversity - cái khác biệt cố chấp của con người. Ông giảng viên thở phào, sau đó nói với ông:

"Như vậy là ông tìm đến khoá học này để chữa bịnh?"

"Vâng, tôi là một bệnh nhân".

Ông nhìn đăm đăm về phía người con gái.

Như vậy, một ngày trôi qua, và khoá học chấm dứt sau khi cả 40 người cùng nhau phát biểu cảm nghĩ về khoá học cùng những điều gặt hái được trong lớp. Tuy vậy, mấy ai quyến luyến với ai. Học để mà học. Ai cũng nghĩ là tù tội thì học để làm gì. Rồi cuối cùng bảng tên đã được bốc ra khỏi ngực áo. Riêng ông cảm thấy như thoát nạn. Ông nghĩ ông vừa trải qua một ngày cực hình đau đớn. Ông ôm cả chồng tài liệu ra ngoài bãi đậu xe, chạy như trốn một ám ảnh. Kim thì đang nói chuyện điện thoại. Tóc nàng đen xõa xuống bờ vai, đôi mắt tô than, dáng dấp nhỏ bé như một người xa xưa. Nhưng, trong tâm hồn nàng, tất cả con người của Việt Nam có lẽ đã mất. Có phải vậy không?

Nancy

... Như vậy, Nancy đã bỏ đi. Bỏ đi một cách lạnh lùng, không thương xót. Nancy, người thiếu nữ tóc vàng, đôi mắt xanh màu da trời mùa hạ. Nancy của những năm tháng, ngồi bên kia phòng làm việc, làm mỗi buổi sáng ông phải uống thêm một cốc cà phê để nhấp thêm những niềm vui nho nhỏ. Nancy của những buổi mai, đứng dựa vào khung cửa kính, để nắng vàng làm lung linh trên gương mắt xinh đẹp lạ thường. Nancy của những buổi trưa, giờ ăn, ngồi trước mặt trong cafeteria, để ông phải say thêm hai bờ môi xinh. Và Nancy của những buổi chiều về muộn, cùng nhau bù đầu về một dự án chưa được giải quyết, để ông hiểu thêm về những cam khổ chia nhau... Nancy của những ngày đầu tiên để ông dìu dẫn, từ một dự án dễ đến dự án khó, giúp nàng tự tin cùng thế giới gọi là cổ trắng IT. Nancy với tiếng cười rộn ràng khi ông kể những câu chuyện khôi hài, để ông thấy lại niềm vui tuổi trẻ. Cũng căn phòng này ông thấy nàng mỗi ngày, bên kia bên này, bờ vai thon mềm, tấm lưng cúi trên bàn làm việc, hay những lúc nàng say mê trước những game trên màn ảnh computer. Nancy với mỗi buổi sáng khi bước vào phòng, ông càng nhận ra chiếc áo mới, chiếc quần mới, mái tóc vừa cắt, và sau đó là những lời khoe của nàng. Và Nancy với những ngày thứ sáu, cùng những dự tính cho cuối tuần cùng những lời chúc mừng. Nancy và ông đã có biết bao nhiêu kỷ niệm trong suốt sáu năm trời như thế. Như vậy, làm sao nàng lại bỏ đi một cách đành đoạn, tàn nhẫn, chẳng nói cả một lời từ biệt với ông như thế này. Tại sao. Vâng ông biết. Bởi vì xã hội này khuyến khích họ như vậy. Hãy chụp bắt những cơ hội. Hãy nhìn về tương lai, bỏ quên quá khứ. Ðừng bận tâm về tiếng trung thành. Ðừng hàng ngũ. Ðừng kỷ niệm. Xứ sở này chỉ biết tranh đấu. Ðể tự tồn.

Ông đứng áp mặt vào khung cửa kính. Dưới kia là bãi đậu xe mênh mông, sau đó là xa lộ 287, dập dìu xe cộ. Cánh rừng sau đó, một màu xanh thẫm bạt trùng. Ðàn ngỗng trời đậm cánh đen thẫm giữa bầu trời trắng sữa. Trời ơi, ngay cả con vật vẫn còn biết dìu dắt nhau, nương cậy nhau, tìm đàn, tìm đồng loại. Còn ông, như một kẻ lẻ loi nhất của thế giới này. Ông đã mất bạn bè, đồng đội, hàng ngũ. Ông đã mất đất nước quê hương. May mà chỉ còn mỗi một Nancy để bầu bạn, thì bây giờ nàng lại bỏ ông. Không hiểu sao, ông thầm thì: Nancy, I miss you.

Hôm nay, ngày đầu tuần, ngày mà cả bọn thường hay kể những trận football đại học hay football chuyên nghiệp vào ngày thứ bảy hay chúa nhật hôm trước, từng người một đã vào phòng sếp lớn, để nhận phong thơ. Ai cũng biết những gì sắp sửa. Tương lai có vẻ u ám. Nhà. Xe. Bảo hiểm. Tiền học phí cho con. Mất việc có nghĩa là mất hết.

Cả hành lang bây giờ vắng tênh, chẳng một tiếng nói cười như thường lệ. Họ chắc cũng như ông đang ngồi trước bàn viết với những câu hỏi. Chắc họ sẽ cân nhắc, đo lường, tính toán, và đôi khi mong mỏi những thằng bạn của họ sẽ trở thành những kẻ không may mắn. Chắc họ sẽ mong ước, bạn bè của họ mới là nạn nhân. Vâng, mười năm nay, ông đã chứng kiến bao nhiêu người bỏ đi, và bao nhiêu người được đổi đến. Ông cũng đã dự biết bao nhiêu buổi tiệc từ giã, đã ký trên nhiều tấm cạt chúc mừng, đã bắt tay bao nhiêu người không quên nói may mắn. Quả thật vậy không. Trong một bài học gì đó mà ông không thể nhớ tên, bà giảng sư nói rằng trung bình trong đời của một người Mỹ đã có đến 20 lần thay đổi nghề, và đã bị nhiều người phản đối. Ông không đồng ý với bà ta bởi vì mười năm nay, ông vẫn có mỗi một công việc này để bám trụ. Nhưng ông đồng ý với bà, ở lời giải thích, rằng đừng nghĩ là mình trở nên quan trọng hay cần thiết cho tổ chức. Ðừng dậm chân tại chỗ. Phải lợi dụng cơ hội để tiến lên. Sẵn sàng rời bỏ hãng, không cần bịn rịn. Ðến đây, ông nhớ ra rồi, ông có hỏi bà ta như vậy làm sao nhân viên thợ thuyền lại sống chết cho hãng. Làm sao mỗi người trở nên một công cụ sản xuất đắc lực? Ðám học viên nhìn ông có lẽ nghĩ ông là tay ngốc nhất thế gian này. Vâng, ông đã ngốc rồi. Ông sẽ không bao giờ hỏi những câu hỏi như thế nữa đâu. Ông cũng biết rồi đây, không ngạc nhiên, thêm vài người nữa bỏ đi. Và thêm vài phòng trống trải trơ trọi, còn sót lại tấm bảng tên gắn ngoài tấm vách chắn. Rồi mọi thứ vẫn quen thuộc. Không kỷ niệm. Không vui, không buồn. Không tình nghĩa. Không đồng đội. Không luyến lưu.

Tờ báo ngày đang nằm trên bàn. Ông đọc lướt trang đầu. Một tin có vẻ khôi hài nhưng cay đắng được đăng bằng tiêu đề lớn. Môt vụ đuổi bắt trên con đường liên bang 95 giữa nhân viên công lực và một tay lái xe truck liều lĩnh. Và cuối cùng tay tài xế đầu hàng sau khi cảnh sát hứa sẽ cho một ổ sandwich cùng thuốc lá. Lý lịch của tên trộm xe này là một kẻ vô gia cư, nguyên là một computer programmer [7] bị thất nghiệp và bị vợ bỏ. Ông đọc và nghẹn. Sự thật quả như vậy sao. Làm gì lại bi thảm đến độ phải ăn trộm cả xe truck, và sau đó phải thúc thủ bằng một miếng bánh mì và một điếu thuốc. Thì ra, áo cơm vẫn là một thảm kịch. Nó đã biến con người trở nên một tù nhân. Một tù nhân không có nhà tù.

*

Những ngày cuối năm trôi qua quá ảm đạm. Những chuẩn bị quen thuộc cho một mùa Lễ, mùa Chúc tụng đã không còn nữa. Vắng đi những viền kim tuyến, những chậu hoa màu đỏ, những cây thông xanh, hay cả những lời chúc tụng rộn ràng. Vắng đi cái bầu không khí xôn xao từ tiếng nhạc Noel quen thuộc. Vắng đi hình ảnh của những chiếc thiệp Giáng sinh được treo la liệt trên vách phòng hay những tiếng còi hú rộn ràng từ con tàu xe lửa mà ông già Bill hằng năm mang đến để giúp vui trong dịp Noel. Liệu những kẻ mang danh IT giống như những ốc đã rỉ, những bộ máy đã cũ, những ngôn ngữ điện toán đã bị đào thải như assembler, machine language, hay như những cái chip đã bỏ vào sọt rác như cái chip 8086 xa xưa. Cơm áo. Ông cắn răng không dám nghĩ, nhưng phải nghĩ. Cả nước Mỹ, mọi đài truyền hình, mọi báo chí đều nhắc nhở đến vụ layoff khủng khiếp, bằng những tin tức hàng đầu. Stock tăng lên vùn vụt. Một đằng vỗ tay vui mừng và một đằng đau theo vết cứa. Ðó là business. Ðó là nước Mỹ. Vua chúa không phải là tổng thống, thống đốc, bí thư mà là boss. Chỉ có boss mới cho nhà cao cửa rộng, xe đẹp, con học trường tốt. Boss mà không muốn thì tất cả mất hết.

*

Buổi chiều, ông trở lại nhà. Có nên nói về phong bì và cái ân huệ của hãng cho vợ ông hay là nín câm. Mùa thu đã sắp tàn, trên những lớp lá khô càng lúc càng phủ đầy sân nhà. Mở nắp thùng thơ. Một phong bì gởi từ quê nhà. Hà Tiên. Chữ viết mềm. Mở ra. Thư của người nào, thoáng gặp trong cuộc đời. Mắt nhắm lại, ông biết lòng ông đang chạnh lại.

Lá thư như thế này:

Ông ơi, ông còn nhớ ngày xưa, ông và bạn bè ông ra bờ sông ở chợ Tròn vác gạo hay không? Hôm ấy ông nhờ tôi cất giùm bài thơ ông làm trong trại cải tạo. Sau đó, tôi không còn biết tin tức của ông ở đâu nữa. Bây giờ biết ông đang ở xứ Mỹ, tôi rất vui mừng mà không còn bâng khuâng nữa. Ðây là bài thơ ông viết cách đây mười tám năm, tôi xin gởi hoàn về chủ của nó:

Người em chợ Tròn

Chuyến đò nào đưa em về trong mưa
Tôi mang đôi mắt em theo dòng kinh xám
Tôi nói một mình, tôi chỉ còn em
Chỉ còn em, có nghĩa là lòng tôi nhỏ lệ

ừ thì đò đưa người xa khuất rừng lau
Rồi tôi sẽ về cùng đầm dạ trạch
Em còn mang cho tôi chiếc khăn sọc rằn
Vướng thêm sợi tóc dài bỏ sót

Sợi tóc mấy năm em làm tình nhân
Khi em theo tôi một thời lận đận
Khi nhớ nhung theo con nước đầu sông
Khi đêm ngày viết đầy những trang nhật ký
Khi yêu tôi, em trở thành thua lỗ
Bắt chước ca dao, hái nụ khổ đau

*

Mắt ông cay nồng. Thì ra giữa lúc ông đang mệt lả cùng miếng cơm manh áo, giữa cõi người, nơi mà tự do, dân chủ, giàu sang thịnh vượng được ca ngợi là bậc nhất hoàn cầu, nhưng ông vẫn không thể tìm ra một cõi tình nghĩa chân thật, nỗi ân cần dịu dàng như ông đã gặp trên quê hương ông. Ở đó là con tim, như con tim của một người con gái nào đã âm thầm theo ông qua giòng lận đận và mãi đến bây giờ. Ở đó, trong cõi hoạn nạn chập chùng, dù sao ông cũng còn vẫn tìm được nụ hoa quí. Hạnh phúc là gì. Nếu không phải bên ta có những đôi mắt theo ta, cảm thông với ta, vui buồn vì ta? Hạnh phúc là gì, khi bên đời ta vẫn còn có những người vì ta mà hy sinh, chịu đựng, hái nụ khổ đau?

Trang giấy ngày xưa dù vàng ối, cũ mèm, chữ của ông cũng vậy, cũng nghiêng ngửa trong hơi thở hụt hẫng và sợ hãi âu lo nhưng nó vẫn còn được giữ gìn qua bao nhiêu chập chùng của lịch sử. Chỉ có ông là quá đỗi vô tình. Ông đã quên những nụ bông tươi đẹp nhất, quí giá nhất, để chạy đuổi theo đến mê mệt, hụt hơi hai tiếng áo cơm này đến buồn muốn khóc.


[1]UNIX: một hệ thống vận hành (AT&T)
[2]mainframe: dàn máy IBM có hệ thống vận hành cao (VM, VMS...)
[3]system: hệ thống điện toán
[4]consultant: chuyên viên đặc biệt làm việc trên căn bản hợp đồng
[5]language: ngôn ngữ điện toán
[6]password: bí số, mật số
[7]programmer: thảo chương viên

Outsourcing

Rồi đùng một cái, vào năm 1995, outsourcing xuất hiện.

Outsourcing là dịch vụ về điện toán, tin học mà một hãng cung cấp cho một hãng khác. Từ dịch vụ có tầm cỡ dài hạn như dịch vụ mà GLOBAL IT ký hợp đồng với XEROX, Avaya, AT&T v.v... đến những dịch vụ nhỏ, ngắn hạn, tạm thời như những agency thầu chuyên cung cấp contractor hay consultant [1] ...

Outsourcing là một phương thuốc thần dược, giúp công ty tiết kiệm tiền bạc để công ty có thể tập trung nhiều hơn vào vai trò sản xuất.

Người ta nói vậy. Chủ nói vậy. Kinh tế gia, hành chánh quản trị nói vậy. Ở đâu cũng nói đến outsourcing. Hãng lớn hãng nhỏ đua nhau thành lập cho outsourcing vì outsourcing tất cả cho outsourcing. Ai là cha đẻ của outsourcing, không cần biết. Chỉ biết kể từ đây thân phận của dân IT [2] bị đe dọa ít nhiều. Bóng nó như bóng đại bàng. Lần đầu tiên họ mới thấy rằng nghề nghiệp IT của họ không còn vững bền nữa. Bằng chứng họ là kẻ thặng thừa, được mang ra buôn bán. Họ sẽ được một công ty mới mua, để làm nhiệm vụ cũ. Họ phải chấp nhận những gì mà công ty mới đặt ra cho họ.

*

Một ngày tháng 8, một nhóm manager của hãng mới đã đến ngay nơi làm việc để phỏng vấn những người tình nguyện qua hãng mới. Nói là phỏng vấn nhưng thật ra đó chỉ là thủ tục dành cho một sự chuyển tiếp. Họ cần những người cũ, ít ra trong lúc này, lúc mà nhiều kẻ rường cột đã cao bay xa chạy. Riêng toán của ông Nguyễn gồm 5 người thì 4 người đã nhảy qua chỗ khác.

Ông đã trả lời người phỏng vấn tại sao ông lại đồng ý ở lại làm việc với hãng mới trong khi hầu hết những người thuộc nhóm ông đã từ chối. "Tôi không muốn thay đổi. Tôi rất sợ phải viết lại resumé."

Phải, ông không còn muốn tranh đua nữa. Tuổi tác ông đã cao. Ông rất sợ sự thay đổi. Ông cầu an. Ông giao đời ông cho số mệnh.

Trải qua bao nhiêu cuộc bể dâu, ông càng hiểu rằng, cuộc đời là cả một sự sắp đặt kỳ diệu bất ngờ. Kỳ diệu bất ngờ như chuyện gia đình ông bỗng nhiên có mặt tại đất nước này. "Cứ nhắm mắt đến đâu thì đến" hay "Có phần không cần gì lo". Ông nghĩ như vậy, mà lòng cảm thấy bình an.

Trong số hai mươi mốt người của phòng ban (department) cũ, chỉ có 10 người đồng ý chuyển tiếp sang hãng mới theo chương trình outsourcing. Bob, người thâm niên nhất, và có chức vụ cao nhất được cử làm trưởng phòng.

Ngày đầu tiên, phòng ốc đìu hiu vắng lặng.

Cấp trên cho biết nay mai sẽ bổ sung đầy đủ cấp số. Ðừng lo.

Như vậy, hết rồi những ngày tháng huy hoàng. Cái thời dân IT được cưng chiều, được dành ngôi vị, được săn đón niềm nở. Cái thời mà người sinh viên thuộc ngành điện toán vừa tốt nghiệp đã được nhiều công ty ưu ái mời mọc. Cái thời khi một công ty có tầm cỡ nhận vào, hắn cảm thấy là cả một vinh dự được trở thành một phần tử. Cái thời tiệc tùng được tổ chức liên miên. Mỗi năm, người nhân viên phải được yêu cầu tối thiểu phải dành 15 ngày học hành huấn luyện. Học gì cũng được. Học ở đâu cũng được. Ði học là đi phép. Không cần thi cử mà cuối khoá được phát bằng tốt nghiệp. Hãng đài thọ hoàn toàn. Cái thời những buổi trưa cả bọn rủ nhau ăn nhà hàng. Tiếng cười nói rộn ràng, niềm vui phản ánh trên mặt. Cái thời lương bổng, tiền thưởng, phép tắc, quyền lợi hậu hĩnh.

Bây giờ đàn chim đã bay đi tan tác. Ai ai cũng lo phần riêng.

Những chiếc máy computer giờ không còn chủ, giữa bàn chơ vơ.

Những tấm bảng trắng treo trên vách còn sót lại những hàng chữ quên chùi.

Ngày nào, hành lang nghe rộn rịp bước giày. Căn phòng dành cho những cuộc họp hành lúc nào cũng vang động tiếng người. Bây giờ thì im ắng như bãi nghĩa trang.

*

Ngay ngày đầu tiên là đại nạn. Khách hàng gọi điện thoại về tổng hành dinh than phiền tại sao họ không nhận những dữ kiện như thường lệ. Bà sếp lớn gọi điện thoại xuống Bob. Bob nghĩ rằng lão có thể giải quyết được bèn lên máy. Khi sửa xong, thay vì hệ thống điện toán tốt đẹp hơn, lại càng hỗn loạn hơn. Hệ thống bị xáo trộn. Nền dữ kiện (data base) bị hư hại. Thân chủ không còn kiểm soát được những dữ kiện như xuất kho, vận chuyển, cập nhật số lượng tồn trữ. Thân chủ phẫn nộ. Những cú điện thoại cứ đổ về dồn dập văn phòng Bob. Mọi yêu cầu đặt hàng bị đình chỉ. Hết điện thoại này reng reng thì điện thoại khác reng reng. Toàn là những nhân vật lớn. Chỉ có lệnh và lệnh.

Lúc ấy vào 10 giờ đêm. Bob gọi điện thoại về nhà ông Nguyễn, bảo hãy khẩn cấp vào sở. Ðến nơi, ông Nguyễn thấy mặt lão tái mét, đang trả lời điện thoại. Ông hiểu là tình trạng đang nguy ngập. Lão bịt ống điện thoại, và nói với ông Nguyễn:

"Bà Monica".

Bà Monica là sếp lớn, coi nguyên cả mấy trăm dân IT. Việc bà ta có mặt đủ biết biến cố này quan trọng đến dường nào.

Lão kể lại sự việc. Ông Nguyễn không biết gì hơn là nghe. Hệ thống bị hỏng do thằng Smith phụ trách. Nhưng hắn đã nhảy qua một hãng điện thoại từ lâu. Ngạch của hắn là Distinguished Staff Member, ngạch cao nhất của chuyên viên.

Ông hỏi:

"Sao không gọi hỏi thằng Smith?"

"Không thể liên lạc với nó. Nó không để điện thoại lại". Bob nhún vai. Ðôi mắt Bob thất thần ảm đạm, đủ biết lão đã trải qua những giờ phút căng thẳng tột cùng.

Ông Nguyễn cảm thấy thương hại tay sếp. Bob đang bấu víu vào ông, bởi vì trong đám người dưới quyền, chỉ một mình ông mới là một IT thâm niên nhất. Ông hiểu tình trạng thật khó khăn, không thể giải quyết trong một hai tiếng đồng hồ. Trước đây, hệ thống điện toán này có đến 5 người phụ trách, nối kết với hơn 100 máy đặt khắp nước Mỹ. Bây giờ chỉ còn có một mình ông.

Ông lặng lẽ quay về phòng mình. Ông không thể từ chối hay viện dẫn cách này hay cách khác để từ chối.

Riêng Bob, lão đã chụp ông như chụp được con mồi. Lão gọi bà Monica cho biết ông là người phụ trách hệ thống, là kẻ chịu trách nhiệm. Lão còn cho số điện thoại của ông. Nhưng lão dấu về việc lão sửa bậy. Sau đó lão dông.

*

Suốt cả đêm còn lại, ông Nguyễn phải vật lộn cùng những dữ kiện, cùng những menu, cùng những file chuyển vận. Vất vả lắm bởi vì trước đây, ông chỉ phụ trách một phần của hệ thống điện toán. Ông không quen thuộc với toàn bộ.

Bây giờ ông như một vị bác sĩ chẩn bệnh. Nhưng vị bác sĩ còn có những tin tức từ bệnh nhân để định bịnh, còn ông thì không có gì hết. Nếu có chăng là cái gia tài tai vạ mà thằng Smith để lại. Ông biết hắn là tay rất nham hiểm. Những chương trình hắn viết rất khó hiểu. Hắn hay dùng những công thức, những áp dụng toán học hoặc machine language [3] , assembly language lỗi thời cũ mèm để bỏ vào trong chương trình. Có lẽ hắn muốn chứng tỏ hắn là một Distinguished Staff Member cũng nên.

Ngoài ra, không phải riêng một mình hắn mà còn có biết bao tay thầu khác nhúng tay vào rồi bỏ đi. Mỗi đứa có một cách làm việc riêng, cách nhìn riêng, kỹ thuật riêng. Có kẻ làm xong thì cẩn thận chú thích, nhưng có kẻ không một lời giải nghĩa. Mà cho dù có viết tên tuổi hẳn hoi, thì tác giả cũng đã bỏ đi rồi, làm sao liên lạc với hắn giữa cõi vô cùng?

Trên lý thuyết, người thảo chương viên phải tuân hành theo những qui tắc mà hãng đòi hỏi khi viết hay sửa đổi một chương trình. Hắn phải ghi rõ ngày và tên hắn khi hắn thay đổi một hàng hay một chữ. Hắn phải giải thích tại sao hắn thay đổi. Hay phải đúc kết tài liệu để giúp cho những kẻ khác sau này dễ dàng làm việc hơn. Tuy nhiên thực tế thì khác. Mạnh ai nấy làm. Miễn là khách hàng thoả mãn, là cấp trên hài lòng... Chẳng ai cần thắc mắc hay than phiền về những chương trình của kẻ khác. Họ ngại bị đụng chạm hay mất lòng bạn đồng nghiệp. Ðể rồi kẻ đến sau phải thừa hưởng một gia tài đầy tai ách. Như thằng Smith đã giao lại cho ông đêm nay.

*

Có tiếng reng reng của chuông điện thoại. Lại bà Monica.

Bà hỏi thăm chừng. Bà kêu Tan, tên ruột của ông Nguyễn.

"Tan có thể cho tôi biết bao lâu mình có thể giải quyết xong?"

Ông trả lời không tin tưởng bao nhiêu:

"Tôi sẽ cố gắng hết sức mình. Bà hẳn biết người quen thuộc với hệ thống điện toán này đã rời công ty".

"Tôi biết. Tôi biết".

Bà chứng tỏ bà đã hiểu sự việc. Cũng như hiểu tất cả nỗi khó khăn của người thuộc cấp. Giọng nói của bà đầy thông cảm. Việc một người chỉ huy cao cấp như bà, người đứng đầu của bộ phận IT, đêm nay, đang thức cùng người thuộc cấp, hiểu và thông cảm, đã làm lòng ông ấm lại.

Trong đêm về sáng, dưới ánh đèn nhiều nến, một mình ông soi bóng trước chiếc máy computer. Ông tập trung trí não, moi hết kiến thức, gỡ rối từng nút một. Tại sao? Tại sao? Ông kiên nhẫn mò mẫm. Những chương trình chằng chịt. Ông test từng dòng, từng phần, từng chương trình. Mắt ông mờ. Ðến hai giờ sáng thì tia sáng mới loé. Cái gút đầu tiên được gỡ. Ông muốn hét lớn, là ông đã thấy được ánh sáng rồi. Ông đã thắng rồi. Ông đã sắp chiếm được mục tiêu rồi.

Ông say sưa nhìn kết quả. Cuối cùng ta tìm mi, dẫu mi có chạy đàng trời ta cũng kiếm được mi.

Ông lại kiểm chứng thêm một lần nữa. Những con số hiền lành tuân phục hiện ra trên màn ảnh. Những gì mà ông chờ đợi như phép lạ bây giờ thật sự xuất hiện. Lòng ông cũng lâng lâng. Bây giờ ông có cảm tưởng như một vị tướng thắng trận. Còn hơn thế nữa. Bởi vì vị tướng kia còn có quân, còn ông thì đơn độc một mình.

Ông bà tổ tiên ông dạy răn làm người phải tập tính khiêm nhường. Nhưng lúc này ông nghĩ là ông có quyền kiêu hãnh. Chính nhờ ông, phải, nhờ ông, đêm nay, hệ thống lại trở lại bình thường, các người trong bộ phận IT sẽ thở phào, và sếp Bob ngày mai sẽ tha hồ kể công. Họ làm sao biết trong đêm về sáng, chỉ có một căn phòng còn để đèn sáng giữa một ngôi lầu tắt đèn, có một kẻ chiến đấu cô đơn.

Thật vậy, từ ngày qua Mỹ, ông đã phải chiến đấu thật lẻ loi, đến trường, mang theo một con tim rướm máu. Quê hương mất, ngôn ngữ cũng mất, bạn bè đồng đội cũng mất. Sách vở ngàn vạn trang nhưng không phải đầy những dòng kiến thức mà đôi khi đầy nỗi buồn của một người tị nạn. Rồi ra trường được một hãng có tầm cỡ mướn, ông lại càng cô đơn hơn. Người cựu chiến binh với ba lần bị thương trận ấy, cũng có một tiểu đội nhưng gồm Ấn Độ, Tàu, Mỹ trắng, Mỹ đen, mà mỗi đứa là một cù lao. Ông nhớ có lần ông gây sự với thằng Smith, trưởng nhóm của ông khi nó hỏi ông giết bao nhiêu người rồi. Ông nhớ lại thằng Mike, dốt hơn ai, nhưng cứ chứng tỏ là mình giỏi, chuyên môn lấy điểm cấp trên. Trong cõi người ấy, ông phải âm thầm chiến đấu để sống còn. Không biết phải tìm cách biết. Không hiểu phải tìm cách hiểu. Phải chứng tỏ cùng chúng là dân tộc ông không dốt, và cũng không hèn. Ông đã bỏ tiền bạc để mua sách vở đọc thêm. Ông đã đến trường để tiếp tục con đường học vấn. Ðêm đêm ông đã nán ở lại trong thư viện hãng cho đến khuya để nghiền ngẫm nghiên cứu. Bóng ông cùng với bóng chiếc đèn bàn, và những trang sách dưới cặp mắt mỏi. Phải chiến đấu. Niềm tự ái dân tộc cùng chất lính tráng trong máu là hai yếu tố giúp ông tiến lên, vượt qua những thử thách.

Bây giờ toán (team) cũ đã tan tác, chẳng có gì để mà luyến tiếc. Thêm một toán mới lại bắt đầu.

Trong đời làm công của ông, ông đã tham dự bao nhiêu toán như thế. Nhưng có ai để ông còn mang theo một hình ảnh mà gìn giữ ? mà bồi hồi, mà yêu dấu ?

Không có ai cả. Những người làm việc chung, có người quá lâu hơn mười năm, nhưng cuối cùng, có ai mang theo bên mình những người bạn một thời để mà gìn giữ. Hay chỉ là những chiếc bóng mờ nhạt bên đời.

Ông gọi cho bà Monica báo tin mừng.

Ở đầu dây, bà Monica reo lên:

"Congratulation. You are a super hero!"

Không biết bà có xem ông là anh hùng siêu đẳng hay không. Xứ này người ta khen tụng nhau quá mức. You are great. You are wonderful. I owe you a lunch! Thanks one million. Nhưng thực tế lại là chuyện khác. Có phải vậy không ?

Có điều, ông cảm thấy mình đã trút một gánh nặng như khối đá nặng ngàn cân.

*

Hôm nay Bob dẫn một tay IT mới vừa tuyển đến phòng ông Nguyễn để giới thiệu nhân viên mới. Ðây là Alex. Một thành viên mới của toán chúng ta. Ông Nguyễn bắt tay Alex chào mừng.

Bob nói tiếp:

"Alex có rất nhiều kinh nghiệm chuyên môn. Hy vọng Alex sẽ giúp chúng ta rất nhiều".

Alex 27 tuổi, nguời gốc Nga. Có vợ Mỹ. Qua Mỹ theo diện di dân. Cả thân hình nó phốp pháp, tròn trịa, gương mặt đầy thịt và phảng phất nét trẻ con. Ðôi mắt híp lại. Môi mỏng. Không thể ngờ là nó đã có hai đứa con. Nhìn mặt cứ tưởng nó vào khoảng 22, 23 tuổi là cùng.

Nó được tuyển chọn như là một chuyên viên với ngạch senior. Ông Nguyễn mừng thầm. Ít ra trong buổi giao thời này, sự có mặt của một IT nhiều kinh nghiệm là điều rất cần thiết.

Thú thật, ông Nguyễn rất có thành kiến với những tay gốc Nga mà ông làm việc chung. Trước đây, ông đã chung đụng với một tay Nga khi ông được giao nhiệm vụ test lại những chương trình của những người trong nhóm development. Tay Nga này ăn nói rất hay, miệng lưỡi rất ngọt. Khi nghe hắn nói thì cứ tưởng hắn là một chuyên viên giàu kinh nghiệm chuyên môn, rộng rãi kiến thức. Nhưng thật ra, nói là một chuyện, mà làm lại là một chuyện khác. Ít khi những chương trình hắn viết đạt được yêu cầu hay mục đích mong muốn. Và mỗi lần ông gặp hắn để chỉ cho hắn xem kết quả sai trái ấy, là hắn lại năn nỉ ông đừng báo cáo lên cấp trên, để hắn sửa chữa lại. Tính tình của tay Nga này thật kỳ lạ. Không hiểu trái tim của hắn thế nào chứ cửa miệng thì luôn luôn chất chứa nọc độc và những điều xấu xa đê tiện. Luôn luôn nhắc chuyện làm tình và tự hào hắn là một cao thủ.

*

Ngày đầu tiên, Alex đã gặp ông, như thể chứng tỏ hắn am tường mọi chuyện:

"Ông có lưu những chương trình của ông hay không. Ông cần tôi giúp gì không ?"

Qua câu hỏi, ông Nguyễn biết là hắn không biết gì về nhiệm vụ căn bản của một bộ phận điện toán. Programmer, operator, administrator v.v...

Người Programmer không làm nhiệm vụ sao lưu (backup). Nhiệm vụ này được thực hiện tự động bởi hệ thống hay operator... Ông nói:

"Tao cần mày giúp tao lôi lại những chương trình bị mất vào ngày hôm qua".

Nhưng ông đợi hoài mà không thấy kết quả. Hắn lơ. Ông gọi điện thoại, giục. Hắn xin lỗi. Ông lại đợi. Không thấy nó trả lời. Ông điên tức. Ông rủa thầm, lại thêm một thằng đểu giả.

Sự có mặt của Alex là cả một tai họa. Hệ thống lại một phen ngưng hoạt động. Lại một phen Bob bị xài xể. Trời ơi, không hiểu Bob đã dùng tiêu chuẩn nào để chọn người. Thường thường trong một hãng lớn, công việc phỏng vấn phải cần hai hoặc ba chuyên viên có kinh nghiệm, phải dựa theo những điều chỉ dẫn đã soạn sẵn, chú trọng vào kinh nghiệm, tác phong, sự ứng xử. Nếu một người trong bọn không đồng ý thì coi như ứng viên không được chọn. Ðiều này chứng tỏ sự chọn người rất cẩn trọng.

Nhưng ở đây, tiêu chuẩn này đã không còn được áp dụng. Hay tại quen biết. Hay là những hàng chữ đánh bóng quảng cáo trên tờ resumé?

Phải. Có ai dám khẳng định một trăm tờ resumé là một trăm tờ khai nói thật thà hay không. Ai cũng biết là không, nhưng họ vẫn xem tờ resumé như một bản văn căn bản để lựa người. Người ta đọc vào, và sẽ hỏi câu hỏi.

Rồi đến vai trò của cái lưỡi. Nó giữ phần hành quan trọng nhất mà người ta đòi hỏi: Communication. Nói. Tán. Ca mình. Bốc lấy mình. Một nói thành một trăm. Chao ơi, cái lưỡi. Lưỡi không xương nhiều đường lắt léo. Ðúng quá đi.

Phải cái lưỡi. Chính cái lưỡi đã làm những kẻ gốc thiểu số đến từ các phương trời khác phải chịu phần thua lỗ. Vì English của mày là English chắp vá. Là English for second language. Là accent English. Là loại English tồi... Cái lưỡi đã làm một đàng dễ dàng cắm cờ vinh quang và một đàng làm chết bỏ... Nếu có tranh được là tranh sự cam khổ, là sự khó khăn, và những lời cám ơn phù phiếm quá đáng như : Great. You are so great, so wonderful. I owe you a lunch... Thanks one million...

Còn phần thưởng thì dành cho kẻ khác.

Thôi, đành chịu vậy.

Thân phận của người nhờ cậy tình thương của nước Mỹ. Ðược gia nhập vào hàng ngũ này quả là quá may mắn rồi. Còn đòi hỏi gì nữa. Có phải vậy không ?

*

Alex đã lộ nguyên hình. Lại thêm một lần chứng tỏ tiếng nói hay resumé chỉ che đậy bên trong những điều đôi khi khoác lác, một nói thành mười. Hậu qua là hắn bị xuống chức. Từ bậc 8 hắn bị giáng xuống 7. Và ít hôm sau, lại bị hạ xuống bậc 6, tức là bậc dành cho tên lính IT cấp bậc thấp nhất. Dù vậy, người ta vẫn còn nghĩ tình với hắn, không nỡ đuổi. Ít lâu sau, Alex tự động bỏ việc. Không hiểu hắn đi đâu.

Còn Bob cũng bị gạt ra ngoài chức vụ chỉ huy. Lão bị những người trong nhóm kêu ca khiếu nại, về vấn đề thăng thưởng không công bằng. Và chuyện lão mướn thằng Alex như ngòi thuốc nổ châm vào những kẻ thuộc quyền. Bà Monica đã được báo cáo. Một nguời manager khác đến thay Bob. Ông ta coi một nhóm đông đảo gồm hai tiểu bang New Jersey và Kansas. Thỉnh thoảng ông ghé ngôi lầu vài ngày để làm việc với nhân viên tại chỗ. Còn những ngày khác, ông làm việc với họ qua điện thoại, điện thư hay videoconference.

Bây giờ công ty khuyến khích nhân viên làm việc tại gia. Tức là home office. Kẻ làm công được phát computer và modem, và bắt thêm một đường dây điện thoại.

Công ty sẽ tiết kiệm tiền thuê, mướn phòng ốc, tiền điện nước, hay tiền bảo trì, dọn dẹp vệ sinh... Còn kẻ làm công thì được dịp săn sóc nhà cửa coi sóc con cái. Cả hai đều có lợi. Có phải vậy không?

Buổi giao thời đã khiến công việc của ông Nguyễn trở nên bận rộn hơn bao giờ. Ông được phong là toán trưởng, dù toán chỉ có một mình ông và Ed - một tay Mỹ trắng chuyên trách về production support của hệ thống DPICS trong khi trước đây ít nhất là 5 người phụ trách. Ed làm việc tại nhà, ở tận Arizona. Trong khi ông làm việc tại New Jersey. Chiếc xe chạy lại bình thường. Càng ngày càng ít thấy lời than phiền hay thắc mắc của khách hàng. Biển trở lại lặng yên sau những ngày nổi sóng.

Người đồng hương

Khi vừa bước ra khỏi thang máy, ông thấy cô. Ông thấy cô hiu hắt buồn so. Ðôi mắt cô đỏ hoe. Có lẽ cô đã khóc. Ông hoảng. Không biết cô ra sao. Ông đến bên cô hỏi: Cháu có chuyện gì ? Cô ngước đôi mắt ràn rụa: Cháu không có chuyện gì hết. Ông cầm lấy tay cô, xiết chặt. Ở đây chỉ có chú và cháu. Cháu cứ nói đi. Có gì không. Cháu có cần chú giúp đỡ gì không? Cô bật khóc. Rồi cô mếu máo: Con Madi nó làm nhục cháu. Cháu muốn nghỉ việc, chú ơi.

Lòng ông đau xót đứt đoạn. Bởi ông cũng đã trải qua những gì mà cô đang trải qua bây giờ. Ông đã hiểu rõ thế nào là những giọt lệ mà cô đang nhỏ xuống. Ông cũng đã hiểu được thế nào là nỗi cô đơn của một người bị hắt hủi, bị tủi nhục giữa chợ người. Ðó là những thử thách cay đắng nhất của một kẻ mất đất nước quê hương, tiếng nói. Ðối với một người đàn ông chai sạn như ông, ông còn cảm thấy đau, huống gì đối với một người phụ nữ như cô. Ông nhớ đến cái nhún vai của con Tina, hay cái nhíu mày của con nhỏ gốc Tàu mang tên Mỹ Christine... Ông nhớ đến những thử thách đầu tiên khi ông từ giã trường đại học để bước vào đời. Cũng những giọt lệ thấm lạnh cõi lòng, cũng là những phẫn nộ, và ý nghĩ bỏ cuộc như cô bây giờ. Ông ước bây giờ ông sẽ ôm lấy cô, che chở cô, thầm thì cùng cô, dịu dàng an ủi cô. Ông muốn để nước mắt của cô thấm lạnh má của ông. Nơi cõi người, mênh mông vô cùng, xa lạ vô cùng, đâu phải dễ dàng tìm được một niềm cảm thông của hai kẻ đồng hương. Ông cảm thấy thương hại cô. Tại sao cô lại khóc ngất, đôi vai cô bật run. Tại sao cô lại đứng một mình thui thủi ở một xó góc. Nói với ai, tâm sự với ai để trút hết nỗi lòng. Ông đề nghị ra ngoài sân. Cô gật đầu đồng ý. Hai người bước trên lối sỏi, hai bên là những bụi hoa huệ vàng, hoa cẩm chướng màu đỏ tím. Cô bắt đầu kể lể:

“Sáng nay cháu hỏi con Madi về việc làm, nó cau mày: Mày hỏi nhiều quá. Tao không muốn trả lời nữa. Hãy ráng mà tìm hiểu lấy. Nhưng chú biết, cháu không biết cháu phải hỏi. Nếu cháu biết thì cháu hỏi nó làm gì.”

“Cháu biết tại sao không. Nó nghĩ cháu đến để cướp nồi cơm của nó. Nó muốn chứng tỏ sự có mặt của nó là cần thiết. Người ta phải cần nó...”

"Nhưng đó là lệnh của cấp trên.”

"Ðành rằng vậy. Nhưng đối với nó, việc ấy là một sỉ nhục. Cháu nghĩ lại xem: Một công việc từ lâu nó bỏ vào đấy bao nhiêu công lao, tự nhiên một ngày có một kẻ đến bảo, mày hãy bàn giao việc lại cho tao. Nhưng trước khi bàn giao, mày hãy huấn luyện tao để tao làm quen với công việc. Con Madi là một con rất ngang ngạnh. Chú làm việc chung với nó rất lâu, chú biết rõ tính tình của nó.”

“Cháu cũng biết vậy. Nhưng cháu không còn cách gì hơn.”

“Cháu là người mới, cháu chưa biết. Có những điều mình không thể ngờ mà chúng lại đến. Nếu không can đảm phấn đấu, mình sẽ bỏ cuộc. Trước đây có bà Lisa cũng gặp trường hợp như cháu bây giờ. Cháu muốn nghe không... Chú sẽ kể lại để cháu hiểu thế nào là sự thật về một tập thể mà xã hội này phong là "cổ trắng"...”

Ông nói với cô như một kẻ đi trước có kinh nghiệm. Nước mắt của cô cũng là những cay đắng chua chát mà ông đã nếm phải trước đây.

Phải, trước đây, ông còn gặp những khó khăn bội phần mà cô đã gặp. Khó khăn vì tuổi tác. Khó khăn vì không phải riêng gặp một người như Madi, mà còn nhiều người như Madi. Ông bước vào trong thế giới gọi là "chuyên nghiệp", "cổ trắng" cô đơn lắm. Ngày ấy, ông không có ai để cầu cứu khi ông có một vấn đề, hay gặp phải một vấn nạn nghề nghiệp. Lần đầu tiên hỏi họ, họ sẽ niềm nở chỉ dẫn tận tình. Lần thứ hai thì họ bắt đầu trả lời nhát gừng. Lần thứ ba thì gương mặt họ sa sầm xuống. Rồi họ sẽ bảo nhau tại sao boss lại đi mướn một kẻ chỉ biết hỏi...

Chú hiểu lắm. Cháu muốn công việc được giải quyết mau chóng. Cháu muốn chu toàn trách nhiệm mà cấp trên giao phó. Cháu sợ bị mất việc làm.

Tiếng chim hót líu lo. Nắng thắm vàng trên lối đi. Cô cúi đầu không nói. Xem chừng cô đã nghe lời khuyên của ông. Cô vuốt lại những sợi tóc bay xõa trên vầng trán.

Trời nắng. Bóng hai người soi trên lối đi. Tôi sẽ giúp em. Sẽ giúp cô. Nơi này thật xa lạ với chúng ta. Không phải là chỗ để chúng ta có mặt như những người bản xứ. Nơi này là bãi chiến trường. Chúng ta phải chiến đấu và phải chiến thắng.

Cô bước đi bên ông, bé nhỏ để ông phải tha thiết cùng trái tim mình. Cháu ơi, cháu đừng buồn. Nơi này, bông hoa Ðông phương rất quí hiếm. Bông hoa Việt Nam lại càng quí hiếm hơn bội phần. Nơi này, khó lắm để thấy lại một hình bóng của Huế Sài Gòn Cần Thơ, của em tan trường về của em đội nón lá của em đến thăm anh một chiều mưa của mưa Sai gon và mưa Thủ Ðức... của trăm ngàn ngày vạn ức ngày mờ mịt tuyết giá lạnh lẽo cành khô cổ thụ chim trời đã bỏ mà bay về phương Nam. Nơi này cả một ngôi lầu rộng lớn mênh mông, toàn là mắt xanh da trắng, thỉnh thoảng lạc loài da đen da vàng... Nơi này tôi đã nương tựa cho qua thời cơm áo, mà cửa phòng nhốt tôi cùng lũi lầm thui thủi, tôi nhìn tôi, mà ô hay tôi là Mỹ hay là Việt Nam... Nơi này khó lắm để cùng nhau ngồi chung một buổi ăn trưa, để chia xẻ cho nhau bao nhiêu chuyện về Việt Nam trong khi ở dưới kia, bên kia rừng thưa là xa lộ dập dìu xe cộ... Và tiếng Việt trơn tru, thả dàn, bất tận, no nê, không uốn lưỡi, không ngậm răng, không tìm chữ, không you, he, she, I... Chú ơi, chú nè, cháu ơi, cháu nè, đôi bạn già trẻ như hai cái bóng âm thầm. Cám ơn cháu, cám ơn cô. Cô như con chim tự đâu bay lại đậu trong ngôi lầu tám tầng. Cô hót líu lo. Chỉ cho tôi nghe. Và tôi thầm thì, to nhỏ, để cô vui giữa cõi đời hung hiểm.

Thôi đừng buồn nữa. Có gì thì hãy tìm chú.

Tìm tôi. Tìm trái tim tìm nước mắt tìm ngày tháng hiu quạnh hắt hiu.

Tìm nhau để nương tựa, chia xẻ nỗi vui nỗi buồn.

Tìm nhau, tha thiết không phải mười ngón đan nhau, mà tấm lòng đau như nhau.

Gió lạnh. Cô run. Mùa xuân vẫn còn lạnh. Thôi chúng ta vào đi. Hai người cùng vào lại thang máy. Lầu năm. Ðừng buồn. Chú sẽ cố gắng. Có gì hãy gọi chú.

Cám ơn chú.

Toán

Chúng ta là một đội. Ðội giữ vai trò quan trọng đến nỗi trong các bản tự kiểm hàng năm, ai cũng phải tự hỏi và tự trả lời. Từ ông CEO lương mấy triệu đô la, đến tay làm công lương mấy chục ngàn. Vẫn là những câu hỏi và trả lời. Có sẵn sàng giúp đỡ đồng nghiệp khi họ cần ngươi hay không. Có tôn trọng văn hoá tập quán phong tục của đồng nghiệp hay không. Có xem toán như gia đình hay không.

Năm nào ông Nguyễn cũng làm chừng ấy bài tự kiểm. Năm trước để dành cho năm sau. Lôi ra dùng lại khoẻ ru. Như bản tự kiểm trong trại cải tạo mà ông đã làm. Chừng nấy hàng khai báo, bắt bao nhiêu con gà, heo, giết bao nhiêu bò trâu của nhân dân, càn bao nhiêu làng xóm. Thành thật ăn năn hối cải để sớm về sum họp với gia đình. Dù hai hoàn cảnh khác biệt, nhưng những trang tự kiểm vẫn là nhìn vào cá nhân tự mình đánh giá. Nhưng những trang tự kiểm hôm qua soi lấy thân phận của kẻ bại trận. Trái lại những trang hôm nay là mang theo tiền thưởng, tiền lương tăng bao nhiêu phần trăm. Mười mấy năm như vậy, ông đã làm chừng nấy bản tự kiểm. Và năm nào sếp lúc cũng luôn luôn nói You are the valuable asset of our company. Thanks for your contribution to our company trong buổi sếp gọi ông đến phòng cho biết lương tiền, bonus thăng thưởng hằng năm. Rồi sếp hỏi câu hỏi cuối cùng:

"Ông có ý kiến hay câu hỏi gì không?"

"Không".

Ông trả lời không. Bởi vì ông cảm thấy đời ông đã quá đầy đủ. Ông may mắn hơn rất nhiều người, những bạn bè, những người thân, và những người cùng một thế hệ. Ðược sống ở đất nước này quả là một điều may mắn. Và chen chân vào thế giới gọi là chuyên viên hay cổ trắng thì càng may mắn hơn. Bởi vậy, ông không màng nhìn lên hay nhìn quanh, không khiếu nại hay thắc mắc. Mặc nàng Elizabeth, làm sau ông, nguyên là kẻ được ông huấn luyện và hướng dẫn, đã được thăng lên trước ông một bậc. Mặc thằng Mike được bổ nhiệm làm manager. Mặc những xầm xì to nhỏ xung quanh về những vụ lên quan lên chức. Mặc có kẻ đến nhắc ông tại sao lại không khiếu nại. Ông chỉ nói cám ơn nhưng trong lòng ông, ông gởi lời cám ơn lên một Ðấng quyền năng đã cho ông quá nhiều ân điển. Ông cũng giật mình khi nhớ lại những bạn bè của ông nằm dưới chân ông, trong những tư thế khác nhau. Ðứa nằm ngửa, đứa nằm sấp, đứa chồm lên, đứa thanh thản như nằm nhìn mây trời. Ông giật mình tại sao ông lại còn sống sót. Ông giật mình giữa đêm hôm khi ông thấy lại những con sóng lớn lù lù tiến về phía ông. Ông giật mình khi tình cờ rờ lại vết sẹo trên ngực. Ông giật mình, đói, trời ơi, cái đói hành khiến ông quên cả nhơ bẩn, vồ chụp bát cơm chó ở bên nền nhà của trung đoàn E10 Bắc Việt khi ông làm thân trâu ngựa. Giật mình và rồi cảm tạ. Càng giật mình ông càng cảm tạ bổng lộc của Trời.

Phải, quá nhiều ân điển bổng lộc ban xuống ông và gia đình ông. Từ dưới đáy vực, ông không bao giờ mơ tưởng đến một ngày có mặt cùng những người bản xứ, chia xẻ với họ nỗi vui nỗi buồn, làm việc chung với họ, đóng góp kiến thức của mình vào công việc chung. Từ một cõi lầm than của một tên ra khỏi trại cải tạo, chiếc chuông đồng leng keng cùng với thùng cà rem xuôi ngược, trời nắng cũng như trời mưa, hôm nay ông đã khoác vào bộ áo quần chỉnh tề, cà vạt áo vét, giày da, để trở thành một con người khác. Rồi tự do, cơm áo, tương lai, ông đang được hưởng, gia đình ông, con cháu ông đang được hưởng. Quá dư dật. Quá tràn trề. Nhiều khi hai vợ chồng ông lái xe giữa lòng đất người, hai bên là rừng hoa, rừng lá, vợ ông tự dưng nhắm mắt. Nàng cảm tạ Ơn Trên. Và tự dưng lòng ông như mềm yếu lại. Ông nói với vợ ông: Mình không ngờ một ngày ở xứ này. Kỳ diệu. Thật kỳ diệu. Ơn Trên đã cho chúng ta nhiều quá.

Elizabeth, chúc mừng cô nhé. Cô lên chức, nhưng cô là một người đồng nghiệp tốt lòng. Cô giục tôi khiếu nại. Nghe tôi, Tan: Phải khiếu nại.. Ngày xưa lão Mike ngâm bọn mình. Bây giờ lão ấy đã đi rồi. Thú thật với Tan, nhờ tôi khiếu nại mà ông Alan mới mở hồ sơ... Nhớ khiếu nại nhé.

Nàng Elizabeth đã thương tình giục ông khiếu nại lên cấp trên.

"Cám ơn Elizabeth. Nhưng thú thật, tôi không cần. Lên chức, lên phận cũng vậy mà thôi. Tôi nghĩ tôi đã có quá nhiều rồi. Cô biết trại tù ở Việt Nam không. Ðói. Ðói mà phải làm, làm chết bỏ. Làm như con trâu con ngựa. Khi ấy tôi thèm, thèm đến chảy nước miếng. Một miếng thịt nhỏ, một cục đường, một lát mỡ. Cô biết tôi còn mơ gì không? Thở. Ðủ rồi. Bây giờ, tôi đã có tất cả... Tôi không cần mơ gì khác."

"Nhưng ông xứng đáng".

"Tôi chỉ làm nhiệm vụ của tôi".

"Tôi luôn luôn nhớ đến ơn ông. Khi tôi là một sinh viên thực tập, ông đã hướng dẫn tôi".

"Tôi phải cám ơn cô, Elizabeth. Ít ra, cô còn biết được điều đó giữa lúc người ta quay mặt".


[1]consultant: chuyên viên đặc biệt làm việc trên căn bản hợp đồng
[2]IT: Chữ tắt của Information Technologies - Kỹ thuật Tin Học hay ngành Tin Học
[3]language: ngôn ngữ điện toán

Binh đoàn Ấn Độ

Ấn Ðộ tràn lan. Ấn Ðộ xâm lăng. Ấn Ðộ ngạo nghễ. Cả ngôi lầu chỉ thấy hầu hết là Ấn Ðộ. Da đen ngâm. Giọng nói nhanh khó nghe. Phát âm chữ l thành chữ n. Thỉnh thoảng có anh chàng đội mũ, râu rậm hầu như che cả miệng hay một nàng còn in dấu son đỏ giữa vầng trán. Ngôn ngữ khác lạ cũng bắt đầu thay thế tiếng Anh, tiếng Mỹ, nghe quen thuộc trên hành lang, trong thang máy hay ngoài bãi đậu xe... Ấn Ðộ đại thắng mùa xuân, mùa hè, mùa thu mùa đông. Không cần bão nổi lên rồi mà ngôi lầu, phòng, ban, nhóm phải treo cờ trắng. Ðể từng đàn từng lũ dân cổ trắng bản xứ âm thầm rời bỏ chỗ dung thân mà ra đi chẳng cần kiện cáo, khiếu nại mất công.

Cuộc xâm thực màu da này không biết xuất hiện lúc nào. Riêng nhóm ông, chỉ ba năm mà đã có ba chàng và một nàng gốc Ấn có mặt. Họ có mặt một vài tháng, lâu nhất là một năm rồi sau đó họ bỏ đi, chẳng để lại một dấu vết.

Trừ những tay consultant [1] Ấn làm việc ở Mỹ lâu năm lão luyện tinh ranh như những cáo già, đa số những người mới nhập cư này đều trẻ, đến Mỹ theo diện visa "cổ trắng ngoại quốc" (H1-B) qua trung gian của những công ty hay văn phòng chuyên môn sống nhờ bằng bán buôn chất xám và mồ hôi.

Ông Nguyễn đã có một thời gian dài làm việc chung với những chàng "thợ khách" này. Theo ông nhận xét, họ rất cần cù, chịu khó học hỏi, lại dễ sai bảo. Họ bán chất xám của họ để đổi lại giấc mơ Mỹ quốc. Ðể đổi lại, họ bị lợi dụng, nhiều khi bị bóc lột. Những ngày đầu của họ tại đất Mỹ, họ cũng bị nhét bốn năm người vào chung một phòng, thiếu thốn tiện nghi. Họ cũng phải tự lực vươn lên giữa cõi người xa lạ. Họ bị thua thiệt đủ mọi phương diện. Họ không dám tiêu xài, không đủ tiền để mua xe mới. Ba bốn người hùn nhau mua một chiếc cũ để đi chung. Cuộc đời của họ tuỳ thuộc vào chủ mướn. Chủ ở đây không phải là công ty mà họ thực sự làm việc, mà là cơ quan hay tổ hợp trực tiếp làm giấy tờ giúp họ qua Mỹ theo diện H1-B visa, tức là diện nhập cảnh những chuyên viên hay trí thức nước ngoài. Họ được quyền ở Mỹ 3 năm, sau đó nếu muốn ở lại thêm, họ được quyền triển hạn thêm 3 năm nữa, nhưng với điều kiện có một công ty chịu bảo trợ.

Họ không thể thoát khỏi sợi dây thòng lọng trong suốt thời gian ở Mỹ. Họ phải tự kiếm việc, nhưng lương tiền không trực tiếp đến với họ mà qua bao nhiêu cửa. Từ công ty có hợp đồng làm ăn với hãng cần người đến những văn phòng agency chuyên về dịch vụ H1-B. Ðể cuối cùng, khi đến tay người "thợ khách" này chỉ còn lại số đồng lương rẻ mạt.

Có nên xem sự có mặt của họ đồng nghĩa với tai ách hay không?

Theo ông, không thể trách họ, mà trách chính sách. Chính sách khuyến khích mướn chuyên viên và những người trí thức từ nước ngoài vào Mỹ. Con số này không phải là không nhỏ. Phải nói đến cả triệu từ trước đến nay. Ông không phải là chuyên viên thống kê, nhưng theo một tài liệu ông đọc được, nội năm 2001 có đến trên 360.000 người nạp đơn xin tái hạn thêm 3 năm. Với con số tái hạn kinh khủng như vậy, thì số lượng chuyên viên và trí thức ngoại quốc nhập cảnh theo diện H1-B từ trước đến nay có thể lên đến cả triệu, không phải là không có lý.

Không biết con số cả triệu người ấy, có bao nhiêu kẻ bị tống xuất về nước. Người ta đoán là không nhiều, vì qua 6 năm ở Mỹ, đám cổ trắng ngoại quốc này sẽ có đủ tiêu chuẩn để được nhà nước ban lượng khoan hồng cho định cư vĩnh viễn như các sắc dân khác.

Từ con số một triệu ấy, bao nhiêu việc làm bị mất, bao nhiêu người cổ trắng bản xứ phải ra đi. Bao nhiêu mơ ước bị tan vỡ. Từ con số một triệu ấy, bao nhiêu nghiệp vụ consultant, contractor dưới tên Patel, ví dụ, được thành lập nhan nhản. Họ cạnh tranh nhau. Họ hạ giá cả lương bổng thị trường. Họ có thể ký hợp đồng ngắn hạn hai ba ngày đến dài hạn cả năm. Họ luôn luôn trang bị cell phone và laptop bên cạnh để sẵn sàng trả lời những cuộc phỏng vấn từ xa hay sẵn sàng đi bất cứ nơi nào. Họ rất khôn ngoan lão luyện trong miệng môi. Bởi nghề họ là cả một chuỗi dài từ phỏng vấn này đến phỏng vấn khác.

Ông Nguyễn biết một tay consultant loại H1-B. Hắn ở Mỹ đã năm năm, và hy vọng được thẻ xanh năm tới, để mang cả gia đình từ Ấn Ðộ qua Mỹ. Không thể tưởng tượng là cứ hai tuần hắn bay đi bay về tuyến đường San Jose CA và Newark NJ. Hắn kể là hắn đã làm consultant cho trên ba chục công ty. Toàn là những công ty có tầm vóc.

Khi ngồi chung một phòng, ông phải bị nhức đầu bởi tiếng chuông điện thoại reng liên hồi từ khách hàng muốn mướn hắn. Hắn tha hồ nói về cái tôi của mình. Cái tôi nhiều khi khoác lác.

Bằng cớ là hắn chưa bao giờ có kinh nghiệm về Business Warehouse, luôn luôn năn nỉ ông hướng dẫn giùm, xin ông cung cấp những tài liệu để hắn học hỏi, tuy vậy, rõ ràng, bên tai ông, ông nghe hắn nói là hắn có kinh nghiệm về lãnh vực này, về những công trình hắn đã thâu đạt ở một vài công ty.

Ông hỏi hắn, mày nói như vậy, lỡ họ bắt mày làm thì sao?

Hắn cười, vuốt bộ râu rậm dày che hết cả miệng mồm như một pháp sư:

"Nói láo để làm sao chúng nó tin là cả một nghệ thuật. Nói láo phải có căn cơ. Thí dụ mình có kinh nghiệm một năm, mình khai ba, bốn năm. Hay mình khai mình hoàn thành một dự án vĩ đại mặc dù trên thực tế, cả một nhóm ba bốn người cùng làm, mình chỉ đóng góp một phần. Ai mà biết được... "

"Nhưng còn BW (Business Warehouse)? Mày nhờ tao chỉ mà?"

"Tôi phải nói vậy để chứng tỏ tôi biết nhiều. Ðó cũng là một nghệ thuật thành công. Thực sự tôi biết công ty ấy không bao giờ có BW... Chỉ những công ty lớn mới dám chơi BW".

"Tao phục mày sát đất. Mày nên đổi nghề là vừa. Bỏ nghề này để làm nghề dạy phỏng vấn đi..."

Hắn cười khoái chí.

"Phải. Có ngày tôi sẽ mở một khoá dạy làm cách gì để thành công khi đi phỏng vấn".

"Phải thêm. Nếu không thành công không nhận thù lao".

"Ðúng. Hoan hô ông Nguyễn".

"Nhớ ghi tên tao đấy".

Hắn là hiện thân của tay xâm lược. Mỗi ngày hắn kể cho ông về một hai nơi gọi hắn. Mà thật sự khả năng của hắn không thể siêu đẳng để kẻ đưa người rước như vậy. Bằng chứng hắn phải học từ ông. Nhưng trên trường đời, hắn là kẻ thắng thế. Hắn mang tin dữ. Hắn là tai ách. Hắn đến đâu, dân IT [2] bản xứ cuốn gói chạy dài...

Ðôi mắt hắn sắc như đôi mắt diều hâu. Hắn kể những gì mà hắn cảm thấy vinh quang.

"Công ty ở Netherland chịu trả cho tôi 150 ngàn đô la nếu tôi đồng ý. Nhưng tôi từ chối. Tôi nghĩ đến tương lai của đám con tôi..."

Hay:

"Công ty ở Denver mới gọi cho biết sẽ bao ăn bao ở bao khách sạn nếu tôi đồng ý làm việc với họ... Tôi đang suy nghĩ."

Suốt ngày, hắn lên Internet để theo dõi hãng máy bay nào hạ giá...

Có lần hắn năn nỉ ông đừng báo cáo với bà manager là công việc của hắn đã hoàn tất.

"Ông thông cảm giùm tôi. Tôi hết sức cám ơn. Nếu ông mà báo cáo thì tôi sẽ rời khỏi nơi đây sớm. Chúng mình đều cùng hoàn cảnh với nhau..."

Khi ông hỏi hắn về lợi tức lương bổng hắn nhận như thế nào:

"Giả dụ hãng này trả $90 một giờ, thì tất cả số tiền này đều đến mày hay qua những ai?"

"Không. Trước hết tấm check với tiền công $90 một giờ được gởi thẳng đến hãng thầu mẹ - tức là hãng ký hợp đồng với công ty. Sau đó hãng thầu này ký check với tiền công $70 để trả cho văn phòng H1-B. Cuối cùng là tấm check khoảng $50 một giờ mới đến tôi. Họ ăn $40".

*

Riêng toán ông, việc mướn dân Ấn Ðộ bắt đầu vào tháng 7 năm 2001.

Chàng đầu tiên tên là Bali.

Hắn khoảng 25 tuổi. Mới qua Mỹ chưa đầy một tuần lễ. Biết Cobol và C. Bà Rita nói với ông như vậy.

Hợp đồng sẽ kéo dài khoảng ba tháng để giúp ông trong một dự án lớn.

Mặc dù mang danh nghĩa là contractor, được mướn để giúp đỡ nhóm, nhưng thực tế, ông phải tốn nhiều thì giờ để huấn luyện hắn.

Ðể rồi khi hắn hiểu biết thành thục về công việc, thì hắn lại ra đi sau khi học được một số kinh nghiệm để bỏ vào resumé.

Có điều phải cần nói ra, có tính cách cá nhân. Ðó là căn bệnh hôi nách của hắn. Luôn luôn hai nách áo của hắn ướt đẫm mồ hôi, phát ra mùi đến lợm mửa.

Trong đời ông, chưa bao giờ ông bị hãi hùng bởi cái mùi hôi kỳ lạ đến như vậy, đến nỗi ông không còn dám dùng cơm trong phòng mình như mọi bữa nữa.

Cô bạn đồng nghiệp của ông thuộc nhóm khác, phải mửa thốc khi bước vào phòng ông.

Nhưng không ai dám nói ra.

Sau đó, ông phải xin bà Rita điều động hắn qua một phòng trống khác để hắn một mình một cõi.

*

Kể từ hôm ấy, nhóm của ông không còn mướn người làm nhân viên chính thức nữa. Trái lại, chỉ mướn Ấn Ðộ với tính cách tạm thời. Ông không phải là chuyên viên để nghiên cứu về tình trạng xâm thực màu da, và chất xám, nhưng ông biết, tình trạng này sẽ làm cho những đứa như ông không còn đất sống nữa.

Lúc này có một công việc để bám trụ là may lắm. Chỉ có những kẻ rất cần thiết mới còn hy vọng sống sót.

Riêng ông, ông vẫn còn sống còn sau những mùa giông bão. Những đồng nghiệp của ông đã lần lượt bỏ ông mà đi. Có kẻ tìm được một chỗ tốt. Có kẻ nghe nói đã nhận giấy sa thải. Có kẻ tự nhiên một ngày không thấy mặt. Còn kẻ ở lại thì tiếp tục chờ đợi đến phiên.

Không còn thời huy hoàng như ngày xưa nữa. Muốn trau dồi nghề nghiệp bằng cách xin đi tu nghiệp cũng bị bác. Cấp trên viện cớ ngân khoản thiếu hụt hay không có người thay thế. Nếu có một sự ưu ái ân cần mà công ty dành cho nhân viên là sự khuyến khích họ đi kiếm việc khác.

Mỗi ngày họ nhận những bản tin cần người, tuyển người qua e-mail. Nhưng thực tế, khó mà được lọt vào vòng sơ kết.

Ai cũng biết lúc này là lúc khó khăn nhất.

Người ta đổ thừa cho biến cố 11 tháng 9.

Trong khi đó, mỗi ngày thêm những gương mặt lạ đến từ phương xa.

Họ chiếm lấy ngôi lầu.

*

Cuối năm 2001, toán ông được chỉ định làm một dự án lớn nhất kể từ khi outsourcingOrder Automatization.

Lại thêm một tay Ấn khác được bổ sung vào toán.

Ðó là dấu hiệu của tin mừng.

Hay là một trận chiến buồn bã?

Trận chiến buồn bã

... Chưa lúc nào như lúc này, ông Nguyễn lại phải chạm trán vào một mặt trận mà chỉ có mỗi một mình ông là một tên lính cô đơn. Cái mặt trận không có súng nổ, đạn bay, không người chết, kẻ bị thương, anh trở về với đôi nạng gỗ, lá cờ phủ trên quan tài. Mà trái lại, nó là những gì ông viết trên computer, những gì ông suy nghĩ, những cuộc thảo luận triền miên giữa ông và một vài người có thẩm quyền của công ty để tìm ra lời giải hầu biến thành khí giới giải quyết chiến trường giúp cho chủ thắng và thợ thua.

Mục đích của mặt trận là làm sao tự động hoá hệ thống đặt hàng tức là order automatization. Có nghĩa là từ đây, không còn cảnh trên khắp nước Mỹ, với những nhân viên thay phiên trực trước máy để chờ trên màn ảnh những tín hiệu từ nơi xa gởi về, đặt hàng, trả lại hàng, trao hàng, đưa hàng tới UPS, Federal Express, bao nhiêu pound, bằng lối ưu tiên, hay Overnight, hay đường bộ... Sẽ không còn một nhóm chuyên viên ở tổng hành dinh mà người ta gọi là production support team thay phiên làm việc 24/24 để giúp các nhân viên ở xa giải quyết những chuyện phiền phức như điện tắt làm máy phải bị tê liệt, và các dữ kiện data bị hư mà danh từ chuyên môn gọi là crashed hay những vấn đề linh tinh khác.

Rõ ràng trong mặt trận này, kẻ thắng thì thắng lớn, bởi từ đây hàng trăm người sẽ mất công ăn việc làm, và công ty sẽ tiết kiệm mỗi năm hàng triệu đô la.

Tự động hóa hệ thống. System automatization. Từ lâu, người ta đã nói nhiều về việc tự động hoá. Thợ chờ đợi. Nhân viên bàn giấy chờ đợi. Những người có chức vụ trong công ty chờ đợi. Ai cũng dư hiểu một ngày máy móc kỹ thuật sẽ thay thế con người. Ai cũng hiểu một ngày họ sẽ bị đào thải bởi những dàn điện toán, e-Business, hay những chip nhỏ xíu như đồng penny mà sức chứa bằng cả một thư viện trung bình. Ai cũng chờ một ngày móng vuốt con quái vật sẽ vồ chụp họ, không cho họ một chỗ đứng. Nhưng một năm trôi qua, rồi một năm khác trôi qua. Họ vẫn tiếp tục làm kẻ sống sót. Họ vẫn tiếp tục mỗi ngày vào giàn máy làm những công việc thường lệ như canh chừng tiếng bíp của máy phát ra là họ dùng những dữ kiện đã có sẵn, đánh vào những ô trống cần thiết rồi cho máy chạy. Máy sẽ tính ngày hết hạn, số lượng tồn kho, hay trường hợp không có đủ cho nhu cầu đòi hòi, phải vay mượn từ các kho khác, phải cập nhất hoá để cuối năm làm kiểm kê cho chính xác. Nói tóm lại, ở đây, vẫn còn có sự có mặt của con người. Họ lý luận là tại chủ ngại tốn tiền khi phải thuê thêm những programmer, sau đó phải huấn luyện nhân viên, thợ thuyền, phải mua sắm trang bị máy móc.

Nhưng cuối cùng cái gì chờ đợi cũng đã đến. Bà Rita gọi ông cho biết quyết định của cấp trên và dặn ông đừng hé môi sợ nhân viên xôn xao. Bà hỏi ông. Không, bà ra lệnh cũng nên:

"Ông nghĩ liệu mình có thể hoàn thành dự án trong vòng một tháng không?"

"Một tháng?" Ông la lên.

"Tôi biết. Tôi biết. Nhưng người ta muốn vậy. Phải làm gấp."

"Tôi nghĩ là bà nên trình lại cấp trên. Thứ nhất là nhân lực. Chỉ có một mình tôi còn lại trong nhóm. Vả lại, tôi không thể làm full time cho dự án. Tôi còn có biết bao nhiêu việc khác phải làm"

"Tôi biết. Tôi biết."

Bà luôn luôn nói Tôi biết, tôi biết I know I know để chứng tỏ rằng bà đã hiểu những khó khăn mà nhân viên của bà sẽ gặp. "Ông về phòng nghiên cứu rồi trả lời cho họ vào buổi họp ngày thứ Năm này". Bà nói tiếp, như một cái lệnh, không cách gì thay đổi.

Ngày thứ năm, hai giờ trưa. Tám người khắp các tiểu bang cùng họp và thảo luận dự án qua điện thoại. Ông Bill nói về dự án và yêu cầu mọi người nhúng tay để dự án được hoàn thành đúng theo lịch trình.

Dù ông yêu cầu mọi người nhúng tay nhưng chỉ có ba người mới là vai chính. Trong đó có ông, Jeff và một người nữ á châu.

*

Một tháng phải hoàn thành. Cả ba người cố gắng giải thích là họ không thể kham nổi trong một khoảng thời gian eo hẹp như vậy. Nhưng nói để mà nói, trình bày để mà trình bày, họ vẫn bị buộc vào trong lịch trình đã ấn định. Bởi tất cả đã sẵn sàng. Tháng tới vài nơi sẽ đóng, những máy địa phương sẽ được nối về một máy chánh mà danh từ chuyên môn gọi là Main Server và máy này sẽ tự động làm tất cả việc mà trước đây máy địa phương đã làm. Họ nói thêm "Rồi còn phải thử. Còn test..."

Mặc cho những lời biện giải, những người quan chức của công ty vẫn khăng khăng. Rõ ràng, họ chưa bao giờ hiểu được hoàn cảnh cũng như những nỗi khó khăn của những programmer. Hay là họ nghĩ những tay này đang chơi trò làm yêu làm sách...

Như vậy, hết cách. Lại chiến đấu. Lại xung trận. Không phải là tên lính chiến đấu. Thời ấy con tim hừng hực lửa. Thời ấy bên cạnh là bạn bè đồng đội. Thời ấy chiến đấu để bảo vệ sống còn cho người khác. Bây giờ thì khác. Một người của số tuổi sắp về chiều chiến đấu. Chiến đấu cho ai, vì ai. Một trăm phần trăm là cho chủ. Bởi vì ông lãnh lương chủ, hưởng bổng lộc của chủ, thuốc men, nằm bệnh viện cũng từ chủ. Những kiến thức kinh nghiệm trong muời mấy năm trong nghề, hôm nay, ông cố mang ra để làm cho chủ. Ông biết đây là cơ hội vàng ngọc để cho mọi người biết đến ông nếu ông muốn lấy điểm với cấp trên. Ông sẽ chứng tỏ cùng mọi người về tài năng mà từ lâu người ta không hề biết về ông. Ông sẽ được tưởng thưởng, thăng cấp. Không, ông đâu cần những mũ áo xênh xang như vậy. Bởi ông đã mỏi mệt. Tuổi càng ngày càng lớn. Ông chỉ muốn an thân không còn muốn đua chen cùng đời nữa. Ông từ chối những lời mời mọc như lương cao, nhiều ngày phép. Ông không cần bận tâm đến tin đồn là hệ thống mà ông phụ trách sẽ hết xài và dĩ nhiên ông sẽ bị thất nghiệp. Ông chẳng khác một cổ thụ bám rễ sâu, chờ ngày tàn tạ. Ông cầu an với công việc làm. Không hăm hở, nhiệt tình như trước nữa. Những đầu ngón tay của ông đã bắt đầu bị tê buốt. Cả bả vai cũng vậy. Trước đây ông đánh vào bàn gõ keyboard nhanh, nhưng giờ, ông đánh chậm lại, khoan thai, từ từ. Trong các buổi họp về nghề nghiệp, ông im lặng không phát biểu ý kiến. Ông muốn dừng lại, làm kẻ đứng bên lề. Ông cũng chẳng màng bận tâm về những thay đổi của khoa học kỹ thuật liên quan đến ngành ông làm việc. Còn bao lâu nữa ta về hưu rồi, hơi sức đâu mà ganh đua cho mệt óc. Bây giờ ông mới hiểu tại sao người già vẫn thường là người bảo thủ. Chính vì họ không thể theo cái mới. Thế thôi.

Cái lệnh ác ôn ấy đã làm ông khổ sở không ít. Ông bị dồn vào chân tường. Trời ơi, làm sao họ có thể hiểu là hệ thống này trước đây cần đến năm người, giờ chỉ có một mình ông. Mà giả dụ bây giờ nếu mướn thêm bốn người mới nữa thì cũng vô ích, bởi vì họ đâu có kinh nghiệm để mà làm? Làm sao họ có thể hiểu những cái khó khăn mà bất cứ một programmer nào cũng phải gặp. Ðó là những con bug bọ không bao giờ ngờ như con bug Y2K. Làm sao họ hiểu ông đã bước vào cái tuổi già, trí não chậm lụt, lu mờ mà nghề này đòi hỏi phải có một trí nhớ tốt. Có biết bao nhiêu lệnh (command), mỗi dấu chấm, dấu phết là cả một tai họa nếu bỏ sót hay ở sai vị trí. Mắt ông đã bắt đầu mờ, khốn khổ lắm mới đọc chữ, đọc số, huống chi cái dấu chấm nhỏ tí ti trên màn ảnh. Rồi bao nhiêu chuyện phải làm. Làm sao để từ một nơi xa muôn dặm tự động gởi tin và ở đây nhận tin cũng tự động, rồi tự động đến máy in, rồi máy in tự động in cái hoá đơn, cái receipt, cái bill, cái label... Nói thì dễ, lý thuyết thì dễ, vẽ đường đi nước bước thì dễ, khi ở trong cuộc mới thấy khó, quá khó.

Vâng, quá khó, 12 giờ đêm ông còn ở bên máy để liên lạc với hãng qua modem. Vợ ông đã giục ông đi ngủ. Ông không trả lời. Ông đang cố tìm xem con bug đang ở đâu. Tại sao mỗi lần ông compile là mỗi lần máy cho biết cái chương trình ông viết bị lỗi. Ông lấy cặp kính lão mang vào, và ước ao có một kính lúp để nhìn chữ cho rõ hơn. Ông nuốt nước miếng. Rõ ràng đây là trận đánh. Ông là tên tướng và cũng là tên tốt. Ông thảo ra kế hoạch và ông cầm súng đơn thương tìm địch. Nhưng địch thì quỉ quyệt. Tóm được một tên thì tên khác lại xuất hiện. Ông bị cuốn hút trong thế trận. Ông hồi hộp theo dõi từng bước, từng bước mà danh từ chuyên môn là step by step. Ông sử dụng những công cụ để yểm trợ như display, animation, printf để nhận rõ con bọ quái quỉ. Ông chạy đông, chạy tây, chạy nam, chạy bắc giữa những hàng chữ nghĩa mà ông đã viết.

Lại chữ nghĩa. Chữ nghĩa tàn bạo. Chữ nghĩa khốc hại. Ông mệt lả. Ðầu óc nóng bừng. Ông đứng dậy đến cửa sổ nhìn xuống đường. Ánh điện neon trắng soi sáng một khúc lộ. Những chiếc lá khô thỉnh thoảng lại rụng. Ông biết là mùa thu đang trăn trở. Còn hai tháng là sẽ đến mùa đông, trời sẽ lạnh, tuyết sẽ rơi, cây cối sẽ trơ cành. Cũng như ông bây giờ, ở vào tuổi sắp lục tuần, những tế bào sống đã từ từ khô và chết dần. Những sợi tóc đã từ từ khô rồi rụng dần. Nhưng đời vẫn chưa buông tha ông. Nhà vẫn không thuộc về ông. Xe cũng không thuộc về ông. Cơm áo, áo cơm, vẫn không cho ông nghỉ dừng một lát. Chữ nghĩa. Ông muốn gào lên. Ðâu cũng là chữ nghĩa. Chữ nghĩa mở mang kiến thức, nhưng chữ nghĩa cũng là sợi dây thòng lọng rờn rợn kinh hoàng. Như một thời, chúng làm thanh niên hai miền Nam Bắc mê cuồng, lăn lộn. Như những câu thơ cắt cổ giết người kích động của Tố Hữu, Chế Lan Viên, Huy Cận... Như những chủ nghĩa lý thuyết để cả dân tộc ông phải tắm trong máu của hận thù. Chữ nghĩa. Giờ đây chúng lại đày ông, bắt ông phải thuộc lòng, phải nhớ như đinh đóng, không thiếu không thừa. Chúng không cho phép ông được nói những gì ông thích nói, viết những gì ông thích viết.

Ông châm điếu thuốc, ngồi lại trước máy, tiếp tục cùng trận chiến. Ông tiếp tục hành quân, tìm địch, diệt địch. Ðịch thì bị diệt, nhưng mục tiêu thì vẫn còn mịt mờ không thấy ở đâu.

Và cứ mỗi tuần đến ngày thứ năm, hai giờ chiều, là ông ngồi trong phòng để tường trình diễn biến của công việc cho những manager ở những tiểu bang xa được rõ. Ông trả lời thắc mắc. Ông nêu những vấn nạn. Họ chia xẻ cùng ông. Nhưng lệnh vẫn là lệnh. Dứt khoát.

*

Có tiếng chuông điện thoại reng. Thằng Ed từ Houston gọi. Ông chào nó, yếu sìu. Giọng thằng Ed vang lên trong máy:

"Ông Nguyễn, ông bị bệnh?"

"Không. Tao không bệnh, nhưng mệt."

"Này, nghe tôi, hãy tịnh dưỡng. Sức khoẻ là trên hết."

Trời ơi nó lại khuyên ông. Nó làm sao biết nó sắp trở thành nạn nhân. Nó làm sao biết ông đang tiếp tay với chủ để đá nó. Nó làm sao biết là ông đang dấu nó về những gì ông đang làm.

Ed thuộc nhóm production support, một nhân viên thâm niên của công ty. Nhiệm vụ của nó là giúp giải quyết những trở ngại mà các người sử dụng hệ thống gặp phải. Thỉnh thoảng, nó lại gọi ông để nhờ ông giúp một vài vấn đề chuyên môn.

Nó nói tại Virginia đang gặp khó khăn. Sét đánh làm máy ngưng hoạt động. Nhân viên phụ trách gọi nó cho biết có những dữ kiện không đúng. Phải sửa gấp.

Rồi nó cho ông số điện thoại để liên lạc.

Ông quay điện thoại. Ông đang gọi nạn nhân của ông. Phải, không trước thì sau, dự án sẽ hoàn thành, những nhu liệu sẽ được bỏ vào máy, và họ sẽ bị sa thải. Ðừng cho họ biết, họ sẽ xôn xao. Lời bà Rita vẫn còn vọng bên tai. Ðầu dây, giọng người đàn bà vang lên. Giọng quen thuộc. Ông biết là cô nàng Kathy:

"Có phải Kathy?"

"Phải. Chính tôi. Có phải ông Nguyễn?"

"Phải."

"Cái gì xảy ra ở đấy?"

"Hôm qua bão. Ðiện bị cúp, và máy bị tắt. Sáng nay những data bị sai."

"Hãy cho tôi một order bị sai."

Kathy đọc cho ông nghe. Ông nói ông rất bận nhưng sẽ cố gắng giải quyết chuyện này càng sớm càng tốt. Kathy cám ơn rối rít:

"Tôi bảo không ai được vào máy để chờ ông nhé?"

"Vâng."

Rồi ông gác ống điện thoại. Ông thở dài. Bây giờ ông có dịp được giúp đỡ họ, nhận ở họ lời cám ơn, nhưng không chóng thì chày, họ không còn dịp để ngồi trước máy nữa. Chính ông là thủ phạm. Không, ông không phải là thủ phạm. Không có ông thì có trăm ngàn người khác mà. Nhưng mà tại sao lương tâm lại cảm thấy bất an.

*

Cuối cùng, dự án cũng được hoàn thành trước ngày ấn định. Ông mừng đến điên khùng khi những file đầu tiên đến trạm và ở đầu dây điện thoại thằng George gọi về cho hay: Tốt rồi. Hóa đơn đã chuyển đến máy in và label được in. Chúng ta phải mở champagne mà ăn mừng là vừa. Ông thở phào như trút hết gánh nặng trong ngực. Cái gánh nặng cơm áo và danh dự. Danh dự của một người Việt Nam. Và danh dự của một người già. Danh dự của nhóm. Bà Rita hứa sẽ can thiệp để cho ông tiền thưởng và giục ông lấy mấy ngày nghỉ. Nếu ông vui 10 phần thì bà phải vui 100 phần cũng nên.

Như vậy, cuối cùng ông đã chiến thắng. Nhưng giữa niềm vui vô hạn ấy, thằng Ted gọi về tiếp tục hỏi về hệ thống điện toán. Nó vẫn chưa biết. Rồi nàng Kathy cũng gọi về nhờ ông cứu dùm. Cái database lại bị hư hại (corrupted). Ông muốn rưng rưng. Danh dự, vâng, ta cảm thấy danh dự thật. Nhưng chắc chắn là ta không cảm thấy tự hào hãnh diện chút nào.

Một người manager

Có lẽ chưa bao giờ như lúc này, nỗi buồn bã của những đám mây u ám mùa thu đã phủ dầy trên cao ốc. Những tin đồn tiếp tục được truyền nhau. Hệ thống điện toán này sẽ đóng. Hệ thống điện toán kia sẽ giữ. Avaya sẽ chuyển toàn bộ qua SAP. Nguyên cả department của ông Nguyễn sẽ bị dẹp, Một bộ phận của GLOBAL IT Ấn Ðộ sẽ chiếm đoạt việc làm của một bộ phận GLOBAL IT Mỹ...

Trong khi đó, binh đoàn lạ càng ngày càng bành trướng. Trong nhà ăn chung, hai ba tay da trắng ngồi với nhau, bên chai coke, nhai hamburger hay sandwich, trán trầm tư nhăn, đôi mắt lơ đãng nhìn ra cửa kính. Dưới ấy, bên kia hàng rào là xa lộ xe chạy dập dìu, không ngớt. Cứ nhìn xa lộ, mới thấy sức mạnh vô địch của Mỹ. Ai đã phán ra một câu như thế. Hối hả. Cuống cuồng. Truck hàng nối hàng phun khói chạy bất kể đêm ngày thời tiết. Nhưng nếu tay ấy có mặt ở ngôi lầu này, có lẽ hắn sẽ thay đổi ý kiến. Hắn sẽ phán: cứ nhìn cafeteria mới thấy được sức mạnh ghê gớm của Ấn Ðộ ở xứ Mỹ.

Thật vậy, cứ vào cafeteria vào giờ ăn trưa, mới biết rõ sức mạnh của Ấn Ðộ. Mùi vị đặc biệt của loại cà ri cay bốc tỏa nồng nặc lẫn cùng giọng nói lạ vang vang như pháo nổ. Hết rồi cảnh ngày xưa, những bàn những ghế xôn xao tiếng Anh tiếng Mỹ, tóc vàng mắt xanh, hay những buổi tiệc đột xuất như ăn mừng công trình Y2K hay một dự án quan trọng thành công với bong bóng xanh đỏ, với những mâm đồ ăn ê hề bốc khói, với hàn huyên chủ thầy thợ nhân viên. Hết rồi cái tình nghĩa đậm đà không sao tách rời được, chúng ta cùng chung một toán, chúng tôi rất tự hào được bạn là thành viên như huấn từ từ ban lãnh đạo.

Mỗi ngày, người ra đi thì đi thầm lặng, còn người ở lại thì ngậm ngùi cùng số phận của mình. Bà Rita thì không ngừng cảnh cáo đám nhân viên của bà về tình trạng của hãng, khuyên nên kiếm việc sớm chừng nào tốt chừng ấy. Bà nhắc họ phải cập nhật hoá resumé và gởi về bà để bà có thể gởi đến một vài nơi mà bà biết họ đang cần người.

Khác với Bob, bà Rita là một người manager có kinh nghiệm về chỉ huy và lãnh đạo. Bà luôn luôn bênh vực cấp thuộc quyền cũng như tìm mọi cơ hội để giúp đỡ họ. Bà thăng thưởng thuộc cấp phân minh. Không cá nhân, không nịnh trên nộ dưới, nhất là biết thông cảm cùng người trong nhóm.

Nhớ bà, nhớ tiếng cuời ròn tan và lớn đến nỗi các phòng khác đều nghe.

Nhớ bà, nhớ những bước giày bà nện mạnh trên hành lang.

Nhớ bà, nhớ đôi mắt màu hạt dẻ, nụ cười tươi, mỗi lần đi ngang qua phòng ông Nguyễn, không quên ngừng lại, hỏi han ông một vài điều.

Ðôi khi ông quên làm tờ tường trình công việc đã làm trong tuần, bà gọi, nhắc khéo rồi nói: Ðừng bận tâm, tôi đã làm cho ông rồi. Nhớ là lần sau đừng quên, kẻo gã manager của phòng nhân viên gọi tôi mà mắng vốn...

Ðôi khi bà trách khéo ông, đừng làm nhanh như vậy, hãy từ từ...

Hay rất thực tế, bà khuyên ông nên trau dồi thêm Anh Ngữ. Bà nói:

"Người Á Ðông vẫn thường bị trở ngại trong việc phát âm và có thói quen hay nói nhanh. Phải gắng khắc phục hai trở ngại này ông Tân à. Nhất là cách phát âm. Communication là một yếu tố rất cần thiết nếu mình muốn vươn lên trong nghề nghiệp của mình..."

Cám ơn lòng ưu ái của bà, nhưng bảo ông phải phát âm đúng theo giọng Mỹ chắc còn khuya. Ngay cả người gốc Anh muốn nhái theo giọng Mỹ cũng phải khó khăn, huống hồ một gã có cái lưỡi đã quá thân thiết với tân khổ ngọt bùi của quê hương mình.

Nhưng mà thưa bà, tại sao lúc nào cũng phải lưu tâm đến communication trong khi bây giờ binh đoàn Ấn Ðộ đã xâm nhập khắp nơi, tung hoành khắp chốn, nghe dội xoáy vào tâm não cái âm ngữ lạ để thế vào tiếng Anh tiếng Mỹ. Tại sao cứ xem communication là hàng đầu, khi những tên họ lạ lẫm đã thay thế Michael, Sam, John, Tina, Marie, Lisa...?

Bây giờ, là thời của e-mail. Là thời của Internet. Là thời mà con người càng ngày càng câm miệng. Bởi nói thì phải cần điện thoại, phải quay số, phải tốn tiền viễn liên, trong khi với e-mail chỉ cần nhấn một cái là thơ hay hồ sơ tài liệu có thể gởi đến cả sư đoàn chỉ trong giây phút. Bởi nói để làm gì nữa khi Internet đã làm cả địa cầu trở thành một mái nhà, và e-mail là phương tiện chánh để khiến người khắp chân trời góc biển được gần gũi nhau hơn bao giờ.

Nhờ e-mail, mới có cuộc cách mạng về lề lối làm việc. Ngồi ở Việt Nam, Trung Hoa, Ấn Ðộ mà như ngồi ngay tại lòng đất Mỹ. Ðể sinh ra danh từ mới, offshore (làm việc ngoài xứ Mỹ) gây khủng khiếp cho đám cổ trắng bản xứ. Thử dạo một vòng trên Internet, để thấy cả vạn công ty từ Trung Hoa, Ấn Ðộ, Hung Gia Lợï, Nam Phi v.v... quảng cáo nhận làm những việc về ngành kỹ sư, tin học, kiến trúc v.v... cho bất cứ công ty nào ở khắp thế giới...

Rõ ràng e-mail đã giúp cổ trắng ở các nước khác có công ăn việc làm. E-mail đã giúp các công ty Mỹ có những hợp đồng rẻ mạt. Và e-mail đã đá nhào đám cổ trắng ở Mỹ không còn đất dung thân.

*

Một ngày, bà Rita gọi ông vào phòng, cho biết bên AT&T cần một người có kinh nghiệm, nếu ông muốn, bà sẽ gởi resumé.

Ông hỏi:

"Bà tin tình hình đen tối lắm sao?"

Bà nhún vai:

"Phải. Theo tôi nghĩ, không trước thì sau, hệ thống DPICS sẽ bị đóng. Nghe tôi, hãy chụp cơ hội".

Ông nghe lời bà.

Vài ngày sau, ông được AT&T kêu phỏng vấn. Người phỏng vấn là một người đàn bà Mỹ gốc Trung Hoa, cỡ 30 tuổi là cùng.

Lâu lắm, ông mới có dịp trở lại chỗ cũ. Phải, chính AT&T là nơi để ông bắt đầu trở thành một thành phần trong hàng ngũ "cổ trắng". AT&T đã thấy những bước chân chập chững vào đời đến khi vững mạnh của ông. AT&T đã giúp ông kinh nghiệm, rèn luyện niềm tự tin. Và AT&T cũng đã thăng trầm như số phận của những kẻ như ông. Từ AT&T BELL LABS, rồi AT&T Information Systems rồi qua AT&T Material Management Group rồi Lucent... Mới đó mà đã 15 năm. Có bao nhiêu nơi, bao nhiêu nhóm, bao nhiêu đội, bao nhiêu manager, bao nhiêu đồng nghiệp để ông phải nhớ. Cớ sao khi bước vào ngôi lầu cũ, ông cảm thấy mình như bước vào một cõi xa lạ nào đó, có thể như một bãi nghĩa trang. Những người muôn năm cũ. Hồn ở đâu bây giờ. Có còn không những buổi họp nhóm rộn ràng. Có còn không những đêm một mình trong phòng Lab rộng mênh mông, để nhìn những tờ giấy computer được in ra còn thơm mùi mực, và kết quả mình đã tạo nên do công trình tim óc của mình. Có còn không, ngoài sân hãng, những hàng cây phong, vào mùa thu lá nhuộm vàng. Có còn không, một Linda, người nữ mắt xanh và tóc mây trời mùa hạ... Có còn không những bóng hình qua đời mình, như những bóng mây trên cao ốc?

Người đàn bà gốc Tàu ấy dẫn ông vào một căn phòng rồi đóng cửa. Trước hết, nàng giới thiệu công việc, sau đó, nhiệm vụ của người mà nàng đang cố tuyển. Sau đó, nàng chỉ hỏi một câu:

"Trên cương vị của một người programmer, nếu ông gặp chuyện không may xảy ra, ông phải làm gì?"

Ông trả lời không ngần ngại:

"Tôi dùng MAN".

Không ngờ chỉ một chữ MAN mà ông đã thành công. MAN tức là MANual, một lệnh (command) như HELP trong Microsoft. Nó là chân kinh bùa hộ mạng giúp người Unix programmer [3] khi hắn lúng túng. Chỉ việc đánh lên máy, và sau đó, muốn hỏi vấn đề gì, cứ việc hỏi. Unix có cả một kho tàng tài liệu để giải thích.

Không thể tin rằng ông lại trở về cùng với AT&T. Nguyễn đi rồi Nguyễn lại về. Có phải vậy không?

*

Nhưng bây giờ, ông như con ngựa lạc bầy. Ông cố gắng tự nhủ, gắng hoà đồng, gắng vui với công việc mới, gắng làm quen với group mới... Bởi vì đây là chỗ dung thân tốt... Người manager mới đã tỏ ý lạc quan với nhóm của bà. Nhóm này không thể bỏ hay dẹp được, bởi vì nó làm việc cho những viên chức cao cấp của AT&T. Họ cần những bản tường trình, báo cáo, dự đoán mỗi ngày, mỗi giờ để có thể ứng xử với business.

Nhưng ông cảm thấy mình trơ trọi vô bờ. Ông nhớ vô cùng cái hệ thống điện toán do ông phụ trách, bây giờ không biết bà Rita đã giao lại cho ai. Nó chính là con của ông. Mỗi ngày, ông lo lắng chăm nom bảo trì nó. Ông đã bỏ vào nó bao ngày bao đêm bao gian khổ. Nó là máy nhưng những hàng chữ trên màn ảnh là của ông, những con số hiện trên screen là do ông tạo thành. Nó đau, ông cũng đau. Nó bình yên, ông cũng bình yên. Ông biết rõ hơn ai đời sống của nó. Thế mà ông phải bỏ. Rõ ràng ông bỏ nó chứ nó không bỏ ông.

Ông cũng nhớ lại căn phòng đã trên mười năm ông có mặt, chiếc ghế bành, những ngăn kệ, cửa kính dày, chiếc máy computer. Ông nhớ buổi sáng nhấn nút thang máy, để đưa ông lên lầu tư, và một ngày bắt đầu cho cơm áo... Nhưng ở đó, dù sao ông cũng quen thân. Bây giờ ở nơi này, chỉ là gỗ đá, chỉ là những gương mặt xa lạ lạnh lùng...

Thì ra, trong con tim của mỗi người vẫn có một chỗ riêng. Chỗ riêng ấy cho dù đầy bóng tối đi nữa. Phải. Ông phải trở về. Ông không thể chịu đựng nổi cái thế giới trơ câm gỗ đá như thế này. Và ông gọi bà Rita, nói lên ý nghĩ:

"Tôi muốn trở lại."

Phía đầu dây, bà reo lên, mừng rỡ:

"Ông nói thật hay giỡn?"

"Tôi nói thật."

"Như vậy là một tin mừng cho nhóm chúng ta. Ông biết không, hệ thống đang gặp rắc rối. Không ai có thể sửa được... Tôi muốn khùng đây."

"Như vậy, tôi sẽ trở lại ngay bây giờ. Xin bà gọi ngay cho bà manager của tôi."

"Ðược, tôi sẽ nói với Alan gọi thẳng sếp lớn của Tân. Ông đừng bận tâm."

Như vậy, chỉ một tuần làm việc với AT&T, ông lại quay trở về cùng GLOBAL IT.

Ông về, vui như chưa bao giờ vui như thế. Ông cảm thấy tinh thần thật thoải mái. Ông thở phào như thể vừa trút một gánh nặng. Ông ngồi lại chiếc ghế cũ. Mở lại máy, liên lạc lại hệ thống điện toán thân yêu của mình. Không có ai có thể hiểu nó bằng ông. Cô nàng Ấn Ðộ dù có bằng cấp cao ở một đại học danh tiếng Ấn Ðộ mà bà Rita tin tưởng có thể thay ông phụ trách, cũng phải đầu hàng. Nàng đã làm hỏng hệ thống điện toán. Những dữ kiện không còn đến đúng bến mà chạy lạc. Khách hàng lại một phen than phiền giận dữ. Bà Rita hốt hoảng không còn biết ai để cầu cứu nữa.

Ông về, như về lại mái nhà xưa. Về và chấp nhận số phần. Có phần không cần gì lo. Ðời ông đã có nhiều ân lượng. Ông ngồi lại chỗ ngồi cũ. Ngoài kia, chiều đã xuống. Trong này, còn lại cõi vắng lặng sau giờ tan việc. Người đàn bà gốc Nam Mỹ đã đẩy chiếc xe chở dụng cụ vệ sinh phòng ốc đi qua, đứng ở cửa xin phép vào phòng. Ông đứng dậy, mau mắn mang thùng rác ra ngoài. Ông muốn giúp bà. Bởi ông cũng đã từng là cái bóng ấy. Ông cũng đã từng đẩy chiếc xe như thế, từng gõ cửa xin phép như thế.

Sau đó, ông bắt đầu điều tra tại sao hệ thống bị hỏng. Quá dễ dàng cho ông. Chỉ vài lệnh, vài sự thay đổi, là hệ thống hoạt động. Dữ kiện lại trở về bến bờ cũ. Ông gọi điện thoại cho bà Rita ở nhà. Bà manager cám ơn rối rít:

"Tôi rất vui mừng vì Tân đã trở lại. Alan cũng nhờ tôi chuyển lại lời cảm ơn của ông ta đến Tân."

"Tôi cũng cần phải cám ơn bà và Alan. Hai người đã cho tôi chiếc phao khi tôi muốn điên khùng vì cô độc."

Ngày khai tử một hệ thống điện toán

Cuối cùng, DPICS đã được đưa vào nghĩa trang để an giấc ngàn thu.

Ed từ sa mạc Arizona gởi e-mail cho những người đã một thời có liên hệ với DPICS, kể về một cái chết. Hắn nói hắn không thể ngờ suốt hơn hai mươi hai năm, có một ngày hắn nhìn thấy DPICS bị bức tử. Nỗi đau của hắn không thể nào diễn tả cho hết, bởi vì cuộc đời làm việc của Ed là cuộc đời của DPICS. Vĩnh biệt DPICS. Hắn kết luận bằng những lời thống thiết.

Ông Nguyễn đọc lá thư mà lòng đẫm lệ. Cũng như Ed, ông là một người của DPICS. Ông bắt đầu có mặt cách đây mười hai năm, lúc mà hệ thống được xem như là niềm tự hào của công ty về vai trò Quản trị vật chất (Material Management).

Có tất cả gần năm ngàn chương trình dính líu vào hệ thống điện toán. Khởi đầu là Bell Labs quản lý. Rồi qua AT&T Information Systems, AT&T Material Management, rồi Lucent, rồi Avaya... Dù công ty có thay đổi tên nhưng DPICS vẫn là DPICS.

Hồi cực thịnh nhất, nó có hơn hai trăm hệ thống Unix phụ đặt khắp cả nuớc Mỹ, với một nhóm đến 7 người phụ trách. Rồi dần dần, con số ấy giảm, cho đến bây giờ nó chỉ còn lại khoảng hơn ba mươi máy.

Chỉ có ông và Ed là kẻ có mặt suốt chiều dài thăng trầm ấy. Và chỉ có hai người là hai kẻ cuối cùng chứng kiến nỗi hấp hối của một hệ thống điện toán.

Ðó là định luật tất nhiên của thời đại khoa học kỹ thuật.

Tàn nhẫn lắm, đau lòng lắm.

Vĩnh biệt DPICS.

Núm ruột bị mất.

Như cái gì đó rất thân yêu phải đành đoạn xa lìa.

Bởi vì mình đã bỏ vào đó quá nhiều, quá nhiều công khó.

Bao nhiêu chất xám của mình.

Vĩnh biệt DPICS.

Ed ơi, tao cũng như mày, hai kẻ hôm nay cất lên lời điếu tang cho đứa con bị bức tử.

Ông thấy lòng mình tràn ngập một biển nước mắt.


[1]consultant: chuyên viên đặc biệt làm việc trên căn bản hợp đồng
[2]IT: Chữ tắt của Information Technologies - Kỹ thuật Tin Học hay ngành Tin Học
[3]UNIX: một hệ thống vận hành (AT&T)

Tay cáo già

Hôm ấy, cơn bão tuyết đã hoành hành cả miền Ðông. Các chương trình thường lệ trên TV phải ngưng lại để nhường cho những bản tin về thời tiết, về những thông cáo trường học đóng cửa, về đường sá lưu thông ngập lụt một vùng tuyết trải thảm, có nơi cao đến 2 feet. Ðài cho hay trận bão mùa đông này là trận bão tuyết của thế kỷ.

Trận bão đã bắt đầu thổi qua vùng tối hôm qua, giờ vẫn còn vần vũ. Vợ ông luôn luôn ao ước có một cú điện thoại gọi từ supervisor của nàng. Còn ông thì gọi điện thoại vào ngôi lầu. Hai vợ chồng cùng chung một mục đích: thăm chừng hãng có đóng cửa vì lý do thời tiết hay không. Nhưng đối với ông, ông cần phải vào. Ông cần phải nương nhờ vào máy móc, vào những phương tiện kỹ thuật của công ty. Ông cần phải vượt qua trở ngại.

Ông và vợ ra ngoài driveway để xúc tuyết, cào tuyết và dọn bãi. Tuyết lên đến đầu gối. Xuổng xúc hoài vẫn không thể dọn sạch. Trời lạnh dưới độ đông. Hai bàn tay tê cứng. Ông thở mệt lả. Nhưng phải gắng. Biết bao nhiêu kẻ đã rủ nhau về sở thất nghiệp. Lúc này còn có một công việc để bám vào là mừng.

Nghĩ đến điều đó, ông càng cám ơn bà Rita, manager cũ của ông. Bà ta đã cứu ông, sau khi cả nhóm bà bị dẹp tiệm, trong khi lệnh cảnh cáo sẽ có một cuộc layoff tập thể rất gần.

Bà rời nhóm để lại những thuộc cấp sững sờ, chơ vơ không ai coi sóc. Rồi mạnh ai nấy tìm, mạnh ai nấy chạy. Con Elizabeth được một tay cựu nhóm trưởng cách đây 10 năm ra tay cứu. Hai tay khác được bổ đến một nhóm để giúp đỡ khách hàng quốc tế. Còn ông thì được bà Rita thương tình bốc đi.

"Tôi tin là Tân sẽ gánh vác được công việc."

Bà nói, trong khi ông không thể hình dung ra được công việc mình sắp gánh.

"Tôi sẽ cố gắng."..

"Tôi biết. Tôi biết..."

I know... I know... Bà hay nói vậy để chứng tỏ là bà đã có quyết định đúng.

"Ông phải gặp Maddu trước khi hắn rời nhóm. Ông là người thế hắn."

Maddu gốc Ấn Ðộ. Hắn bị rời khỏi nhóm vì chính sách mới của công ty không cho phép một consultant làm việc lâu năm tại một bộ phận quan yếu.

Ông nghe lời bà Rita, mang giấy viết đến phòng Maddu. Ðến chừng thấy gương mặt lạnh lùng của hắn, ông mới hiểu. Phải, chính ông là kẻ đến chiếm đoạt công ăn việc làm của hắn, là kẻ thừa sai mang điềm dữ cho hắn, làm hắn phải mất lương $90 một giờ. Hắn đã tỏ thái độ bất mãn ấy bằng “lời nói là bạc im lặng là vàng”. Ông ngồi bên cạnh. Năm phút chờ đợi, ông nổi tự ái:

"Bà Rita kêu tao đến đây. Mày biết không?"

"Tôi đang bận."

"Nếu bận thì tao về phòng."

Lần thứ hai, ông lại đến. Hắn vẫn im lặng. Ông không còn cầm được cơn nóng nữa. Ông đưa tay tắt máy computer của hắn:

"Tao muốn nói chuyện với mày."

"Chuyện gì?"

Tên Ấn độ thách thức.

"Về việc mày có chỉ tao hay không?"

"Chỉ cái gì?"

"Về công việc của mày. Mày nên nhớ là tao làm cho hãng chớ không phải đi ăn xin mày..."

Ông ngừng rồi tiếp tục thét lên:

"Mày nên nhớ, việc mày bị đuổi không phải là do tao, mày biết không?”

Hắn vẫn im.

Ðiện thoại trên bàn hắn reng. Hắn chụp và nói bằng ngôn ngữ xứ hắn.

"F. "

Ông chửi thề rồi bước ra khỏi phòng hắn.

Ông đến phòng bà Rita.

"Tôi không thể làm việc với thằng Maddu." Ông nói với bà.

"Vì sao?"

Ông trình bày lại những gì mà ông đã gặp.

"Ðể tôi gọi hắn."

Nhưng bà cũng chịu thua. Hắn đâu có cần điểm tốt. Hắn cũng đâu cần tiền thất nghiệp. Hắn muốn người ta biết tay hắn. Ðược. Các người đuổi ta. Ta sẽ cho các người biết tay.

Như vậy, ông nhận lấy phần hành, không, cái oan nghiệp cũng nên, từ một con cáo già. Ông muốn từ bỏ tất cả, vất hết những hệ lụy áo cơm, rũ hết bụi đời. Năm nay ông 59 tuổi. Ở quê hương ông, với tuổi này, có lẽ ông mang bộ đồ bà ba, xách dù đi rong chơi. Có phải?

Kể từ hôm ấy, ông không còn đến phòng của thằng consultant Ấn Ðộ nữa. Ông phải mua sách vở, đọc tài liệu, tự tìm tòi học hỏi. Ông nghiền ngẫm từng chương. Ông tự huấn luyện lấy ông. Càng tức thằng Ấn Độ consultant, ông càng quyết tâm. Ông là ông thầy và cũng là học trò. Ông tự ra đề và tự tìm lời giải.

Trong thời gian này, ông có xin dự một khóa học chuyên môn, nhưng không được bà Rita chấp thuận. Một phần vì chính sách tiết kiệm tối đa của hãng và một phần vì không có ai thay thế ông.

Trước đây, Maddu dấu kỹ nghề nên những người trong nhóm đều chẳng biết gì về BW (Business Warehouse). Ðó là một bí quyết để giữ gìn việc làm. Chính vì vậy, hắn mới có thể kéo dài đến ba năm hơn với tiền trả lương cao nhất cho một consultant: $90/giờ. Nếu không có chính sách hạn chế vai trò consultant trong các việc quan yếu thì có lẽ việc làm hắn sẽ không bao giờ bị lung lay.

Những ngày đầu, ông đã về nhà quá khuya, và đến hãng quá sớm. Càng nhớ đến thằng Maddu, với chiếc đầu sói, với môi mỏng, với cặp mắt như lúc nào cũng cúi xuống, càng hận và càng dốc lòng học. Không hiểu thì ráng hiểu, cố mà hiểu. Kiến thức là của chung, ông nghĩ vậy, chỉ tại mình không chịu tìm tòi mà thôi.

Nhiệm vụ mới của ông hoàn toàn chẳng liên quan gì đến kinh nghiệm nghề nghiệp mà từ trước đến nay ông đã thu góp. Từ ngày có SAP, ngành điện toán càng đẻ ra nhiều nghề. Chẳng hạn như ngành an ninh nhu liệu này. Nó cũng là một ứng dụng điện toán, nhưng là một ứng dụng về thẩm quyền. Software security [1] . Phải phân bố thẩm quyền cho thích hợp và chính xác. Thí dụ, người làm trong ban lương bổng dĩ nhiên có quyền xem lương bổng nhân viên. Trái lại kẻ chỉ lo mua bán dĩ nhiên bị tuyệt đối cấm đụng vào lãnh vực của ban lương bổng. Hay một manager có quyền sửa đổi hồ sơ lý lịch thuộc cấp, trái lại thuộc cấp chỉ biết nhìn, biết đọc mà thôi.

Trong lãnh vực chuyên môn, người ta gọi đó là profile. Lý lịch cá nhân. Nhưng khác với lý lịch ngoài thực tế, ở lãnh vực điện toán, nó là một giấy phép của công ty không hơn không kém.

Ông đã vượt qua những chướng ngại ghê gớm nhất. Từ chỗ không biết bây giờ trở thành biết, và trở thành thân quen là cả một hành trình cam khổ. Business warehouse hay BW không phải dễ dàng như một ngôn ngữ điện toán hay một nền dữ kiện (database)... Nó là một tập hợp những ứng dụng qua nhiều cửa, từ UNIX qua PC, từ EXEL qua ABAP/4 để biến thành những kết quả mà người gọi là workbook. Nó rất cần cho những người cấp cao của công ty khi muốn tiên đoán nhu cầu trên thị trường để có những quyết định hệ trọng... Và cũng vì khách hàng là những ông bà cấp cao nhất, nên việc làm phải nhanh chóng, phải đúng, phải chính xác.

Ông mừng lắm. Mỗi ngày ông nhận những lời cảm ơn qua e-mail. Ít ra trong nỗi buồn tẻ áo cơm cơm áo vẫn còn nẩy sinh niềm vui. Ông nghĩ mình đã chiến đấu và chiến thắng. Bà Rita không còn bận tâm gì đến những lời khiếu nại, bởi việc làm êm đẹp quá, lấy gì mà khiếu nại.

Ông cũng cảm tạ Ơn Trên. Ðời ông gặp may này qua may khác. Giữa lúc thiên hạ bị cơn hồng thủy kinh tế cuốn mất việc làm, giữa lúc mỗi ngày những tin layoff hàng ngàn người được nhắc nhở trên TV, giữa lúc một việc làm kiếm được quả là trúng số, thì ông còn có một chỗ để nương nhờ. Ðó có phải là Ơn điển không?

Nhưng không ai có thể tin một ngày nhóm ông bị dẹp. Nó không bị dẹp vì hãng thấy nó không cần thiết hay bị lỗ lả. Trái lại nó rất cần. Nhưng bị dẹp bởi vì nó bị trao thân cho xứ Ấn mịt mù.

Lý do thật giản dị. Bởi vì nơi đó (Ấn) trúng hợp đồng với giá rẻ mạt.

Cùng một công ty nhưng hai đơn vị chơi nhau.

Trong trận chiến này, rõ ràng phe Mỹ đại bại.

Trao thân cho Ấn Ðộ

Một ngày, cả bọn được lệnh bỏ việc đến phòng họp khẩn cấp. Qua viễn liên, Mặt Trời của IT sẽ nói chuyện về số phận của tổ chức.

Ông chào mọi người. Sau một màn ca ngợi đám IT thuộc quyền về những cống hiến của họ, ông bắt đầu nói về số phận. Ông cho biết hợp đồng với Avaya đã thất bại. Avaya không muốn tái hạn giao kèo với GLOBAL IT Mỹ nữa. Avaya muốn ký hợp đồng với một bộ phận GLOBAL IT từ Ấn độ. Ông yêu cầu mọi người nên cố gắng làm hết sức mình để cuộc chuyển tiếp được tốt đẹp.

Cuối cùng, ông hỏi có ai nêu câu hỏi gì không.

Im lặng. Từ trong máy khuếch đại, giọng của một người đàn bà vang lên: Có ai có câu hỏi thì xin bấm số 1.

Vẫn không ai có câu hỏi.

Mà hỏi làm gì. Khi biết rõ số phận của mình đã bị đặt ở cuối đường cùng. Hết binh đoàn H1-B xâm nhập tấn công, ngỡ chút hy vọng còn sót lại, thì bây giờ lại đến màn bán nước Mỹ này qua xứ khác. Hết hardware bây giờ đến software. Bây giờ thì hết cách chạy. Hết cách thoát. Bốn phía bị vây bủa. Chỉ còn cách là đầu hàng, đưa hai tay chịu trói.

Bởi vậy, tất cả im lặng. Và ông Mặt Trời rào đón câu cuối cùng. Có gì tôi sẽ thông báo cho quí anh em. Cám ơn anh em đã bỏ thì giờ. Chúc một ngày vui.

Cứ thế mỗi ngày đám thầy thợ bản xứ từng người một nhận giấy rút lui. Có kẻ thì âm thầm như mang trong lòng khối bi hận cay đắng. Có kẻ thì lạc quan phấn khích gởi e-mail vẽ vời đủ chuyện, nào tương lai như bức tranh màu, đời đầy những ngạc nhiên hay nếu bạn có thể nhận thức được, nó bạn có thể hoàn thành nó như lá thư sau đây của bà Linda:

Friends,

Here we go... the infamous 'good bye' letter. After all of these years I have seen so many people come and go... what company are we now?! I guess I never really thought I'd be sending out a 'good bye' letter. Well, life is just full of surprises!

My last day is Friday. I am so excited about my future, as I dream and work towards my goals. My family, my friends, any new careers all lie ahead of me like a picture waiting to be painted.

I wish for you the same enthusiasm that I feel, as you go forward with whatever your life painting holds for you.

Thank you for the opportunities I've been given working with all of you. Your friendship and support over the years has truly made my job here as good as it has been.

Remember - "If you can perceive it, you can achieve it!"

Ôi đời thì đầy những ngạc nhiên! Life is just full of surprises! Bà ta đã buông một dấu chấm than đầy thú vị. Ông Nguyễn đọc xong chửi thề trong bụng: ngạc nhiên cái mốc mẹ gì. Cái gì cũng có nguyên ủy của nó. Trước sau gì nó cũng đến. Bây giờ là thời đại của tin học, của Internet, của e-mail, chat, của Videoconference, để kẻ làm việc ở Ấn Ðộ mà như thể làm việc ở Mỹ. Chẳng lẽ trả lương cả trăm ngàn đô la cho bà mỗi năm trong khi chỉ cần vài ngàn cho một kẻ cùng có chung một năng suất. Ngạc nhiên cái mẹ gì khi mỗi ngày cứ nhìn giá stock mà rụng tim. Ngay cả chuyện binh đoàn Ấn Ðộ có mặt chiếm đoạt việc làm của bà cũng không có gì lạ. Rồi nay mai, có lẽ binh đoàn đến từ Việt Nam sẽ có mặt để thay thế Ấn Ðộ vì giá mướn chất xám ở đấy rẻ mạt hơn.

Ông Nguyễn định gởi thư trả lời, trước là cám ơn người bị mất việc về lời từ biệt, sau là nói về ý nghĩ của mình. Nhưng mới viết nửa chừng thì ông được sếp lớn gọi lên phòng. Thì chẳng có gì ngạc nhiên hết. Ðiều mà ông chờ đợi bấy lâu, hôm nay đã đến. Nó đã thật sự đến. Như đã đến với thật nhiều người quanh ông. Bởi thế ông dửng dưng như một kẻ bất cần. Lúc này ông có cảm giác của một người được thoát khỏi tròng hệ lụy. Tự do. Nhẹ tênh. Lưng ông như thẳng lại. Mắt ông như nhìn thẳng thách thức khi giáp mặt sếp.

Sếp mời ông ngồi, rồi từ từ rút ra một xấp giấy. Sau đó sếp nói tôi sẽ đọc chậm rãi, có chỗ nào không hiểu thì you (ông, mày, bạn) cứ stop. Cặp kính của sếp trệ xuống sóng mũi. Ðôi má phình. Sếp lại hiện thân của quyền uy trong một xã hội tư bản. Sếp thương thì được nhờ. Sếp ghét thì ráng chịu. Giọng đọc của sếp trầm trầm. Ông được chọn trong thành phần bị laid off vào cuối tháng. Tuy nhiên vì nhu cầu, ông sẽ ở lại thêm hai tháng. Và công việc sẽ thật sự chấm dứt vào ngày 30 tháng 4.

Ông Nguyễn không tin vào tai mình, hỏi lại sếp: Xin ông đọc lại. Sếp đọc ngày 30 tháng 4. Rồi sếp lấy cặp kính ra khỏi mắt. Sếp nói:

"Tuần tới, một nhóm chuyên viên sẽ từ Ấn Ðộ qua để chúng ta huấn luyện. Họ sẽ ở đây hai tháng để quen công việc rồi trở lại nước họ để thật sự bắt tay vào việc."

Ông Nguyễn nghe khó thở, trong khi sếp đang chờ ông hỏi thêm. Không có gì ngạc nhiên. Cái gì cũng có nguyên ủy của nó. Ông đã khẳng định với bà Linda, nhưng rõ ràng, những lời của sếp đã làm ông như tá hỏa tam tinh, khiến ông phải lặng người một đỗi. Ông đứng dậy, rời phòng. Khi ra ngoài hành lang, ông đã đứng yên.

Phải. Ðời thì đầy những chuyện ngạc nhiên. Ngoài tầm hiểu biết hay kinh nghiệm cá nhân của mình. Tại sao lại là ngày 30 tháng 4, ngày mà mỗi người Việt Nam không thể nào quên được.

Thằng Baji đi qua. Lại Ấn Ðộ, nhưng là di dân. Ðang chuẩn bị thi vào quốc tịch Mỹ. Nó vào phòng hỏi thăm. Nghe ông kể, nó nói:

"Chuyện kỳ cục chưa hề xảy ra. Kẻ bị đuổi lại đi huấn luyện kẻ chiếm đoạt."

Rồi nó thì thào:

"Tôi khuyên ông hãy dấu kỹ nghề, đừng mang ra hết. Hãy tà tà mà huấn luyện. Ðể chúng nó biết tay."

"Tao biết. Bộ mày muốn tao trở thành một Maddu thứ hai hay sao?".

"Dĩ nhiên."

Bão tuyết bão người

Tháng giêng 2003. Thêm một cơn bão mùa đông để lại vùng đông bắc một bãi chiến trường.

Trận bão bắt đầu từ Washington DC, rồi hướng lên phía Bắc, dọc theo các vùng nằm bên bờ Ðại Tây dương.

Có đài nói là trận bão tuyết của thế kỷ. Ông không nghĩ vậy. Ông đã chứng kiến những cơn bão mùa đông dữ dội hơn, nhưng ông công nhận, chưa bao giờ vùng ảnh hưởng của trận bão lại lớn rộng như vậy. Từ Washington D.C lên Delaware, PA, NJ, CT và MA.

Sáng chưa mở mắt mà đài đã liên tiếp tường trình các tin tức về thời tiết. Các trường học đã được lệnh đóng cửa. Người đi làm công lại một phen ao ước được một phép lạ hãng đóng cửa vì lý do thời tiết. Nhưng cuối cùng ai nấy vẫn cầm xẻng ra xúc tuyết, cào tuyết, mở lối ra rồi rồ máy xe, mở đèn, theo đoàn xe nối đuôi chạy thật chậm trên những con đường mà hai bên lề là những ụ tuyết do những chiếc xe dọn ủi làm việc không ngưng nghỉ. Ðể đến một nơi có lẽ chẳng ai thích thú chút nào, nhưng cũng phải đến. Vì cơm áo. Nơi đó, người ta biến thành tớ, thành kẻ làm công. Nơi đó, người ta đặt số phận mình vào bàn tay của kẻ khác. Nơi đó, người ta xem là mái nhà thứ hai. Người ta trang hoàng, treo tranh ảnh, chưng hình con cái vợ chồng... Nơi đó, có lẽ trong kệ ngăn, có những cuốn sổ tay nhật ký, hay những lá thư bí mật mà chỉ một mình hắn biết. Nơi đó, hắn ngồi đến rách đáy quần, làm sao hắn lại có thể quên cho được. Con người có phải hơn con vật ở chỗ cái tình hay thua con vật ở chỗ cái tình?

Sáng nay, ông lại có mặt. Tuần trước, sếp Dahu gọi ông cho biết, ngày thứ ba này, ông phải có mặt để bắt đầu huấn luyện đám chuyên viên đến từ Ấn Ðộ. Sếp gốc Ấn này hình như hiểu được phản ứng của kẻ bị đàn áp nên đã chu đáo bắt mỗi người trong nhóm phải làm tờ trình huấn luyện và gởi đến sếp. Sếp khoảng 40 tuổi, nguyên là nhóm trưởng của một nhóm khác, được tạm thời xử lý thường vụ nhóm của ông, sau khi bà Rita đã nhảy qua một bộ phận khác. Theo ông nhận xét, trong hàng ngũ cấp manager, nếu manager là Mỹ chánh gốc thì không khí và điều kiện làm việc tương đối thoải mái dễ chịu hơn nếu tay manager này đến từ các nước khác. Nhận xét này có được khi ông làm việc suốt 18 năm, qua nhiều manager khác nhau. Chỉ có manager Mỹ mới giúp đỡ nhân viên, ít khe khắt, không nịnh trên nộ dưới. Như bà Rita chẳng hạn. Còn tay sếp Dahu thì trái ngược. Hắn làm mọi cách để làm vừa lòng cấp trên mà không cần đếm xỉa gì đến thuộc cấp.

Ông đến hãng khi tuyết vẫn còn vần vũ. Lại nhấn nút thang máy. Lại lên lầu tư. Lại thẻ ra vào điện tử. Rồi cửa phòng mở. Hôm nay, cả một ngôi lầu vắng ngắt. Thằng Bajy làm việc ở nhà. Ông lên máy, xem e-mail. Bản dự thảo huấn luyện đám Ấn Ðộ được chuyển đến những người trong nhóm để thi hành. Trời ơi, tủi thân cho đám IT cổ trắng ở Mỹ này. Có bao giờ họ được huấn luyện chu đáo, được kẻ đưa người đón như thế này đâu. Trái lại, chỉ là một hai khoá học tu nghiệp, rồi nghề dạy nghề. Hay phải tự mình tìm cách để mà tồn tại. Không có cảnh chỉ một người được bốn kẻ thay phiên huấn luyện. Rồi mỗi ngày thứ năm, cả nhóm phải báo cáo chi tiết lên cấp trên. Rõ ràng đám khách này là cha mẹ.

Tuyết vẫn tiếp tục vần vũ. Nhìn ra ngoài, ông thấy tuyết đã đầy phủ các xe cộ trên bãi đậu. Tình trạng như thế này, phải về trước khi tình trạng lưu thông trở nên tồi tệ. Ông gởi e-mail cho Dahu thông báo là ông về. Trong thời gian còn lại ông sẽ làm việc tại nhà. I will work from home. My home phone is...

Sau đó ông nhận e mail của Dahu, không phải gởi riêng ông mà cho tất cả nhóm. Hắn cho biết kể từ đây không ai được quyền làm việc theo kiểu home office nữa. Phải có mặt tại hãng để huấn luyện đám Ấn. Cuối cùng hắn hy vọng mọi người sẽ nhận thức được tầm quan trọng của công tác huấn luyện này mà thượng cấp đã giao cho hắn...

*

"Ông Nguyễn à. Mình đừng nên tỏ thái độ bây giờ không tốt đâu." Baji khuyên khi ông đòi lên gặp ông Ree, sếp của Dahu.

"Sao vậy?"

"Lúc này là lúc mình đi kiếm việc làm, mình cần phải cần lấy lòng hắn. Hắn không thể đối xử với nhân viên một cách không professionally như vậy. Làm việc tại gia (Home office) là chính sách của hãng. Hơn nữa, tiểu bang đã ban lệnh báo động, đóng cửa công sở, cảnh cáo không ra ngoài đường nếu không cần thiết. Ông biết không, tôi phải mất cả một tiếng đồng hồ để dọn tuyết. Nếu tôi bị heart attack thì ai chịu trách nhiệm ? Tôi hứa với ông, nếu kiếm việc được tôi sẽ gặp ông Ree..."

Baji nói, bất mãn và chịu đựng. Phải, lúc này hắn, kẻ bị đuổi phải nương nhờ vào lời phê của Dahu. Khi bản resumé được gởi đi, luôn luôn có yêu cầu điện thoại của manager. Ôi thân phận cổ trắng IT!

Ngay buổi chiều hôm ấy, ông nhận một cú điện thoại của sếp. Sếp nói sẽ hướng dẫn người mới đến để gặp ông khoảng 30 phút nữa. Có bận gì không. Ông Nguyễn trả lời: tôi không bận, rồi gác ống điện thoại xuống. Ngoài trời tuyết rơi. Trận bão tuyết đã thật sự đến nơi này trước khi thổi dạt ra biển Ðại Tây Dương. Cả một thinh không vần vũ bông tuyết như những mảng bông gòn. Có nên phẫn nộ không. Có nên trả thù không. Những đám bông tuyết vẫn bay bay, vẫn tiếp tục rơi xuống. Cả một thinh không đầy bông tuyết, và đất đai, bãi đậu xe, những chiếc xe, mái nhà, hàng cây... tất cả đều phủ một màu trắng. Ông cảm thấy nỗi hư vô xen lẫn cái phù du của đời người. Ông chẳng có gì để giận hờn hay trách cứ. Xã hội này là vậy. Muốn tồn tại phải chiến đấu. Ông đã chiến đấu quá nhiều. Gần mười năm trong lửa đạn bề bề, mấy năm trong tù tội, và bao năm ở đất người. Chiến đấu không mỏi mệt. Chiến đấu trong khi nỗi buồn của kẻ xa quê hương thì chất ngất. Bây giờ thì mệt mỏi rồi. Như cả một đất trời mênh mông tang trắng.

Phải. Ðời thì thật ngạc nhiên. Mọi điều đều có thể xảy ra dưới ánh mặt trời. Ngay giữa lúc ông nghĩ là mình có một chỗ an toàn để bám trụ, một công việc vững bền để chờ ngày về hưu, bởi vì công việc của ông là công việc tối cần, phần hành của ông lại khó hiếm để có người thay thế, nhưng bây giờ, như thế đó. Trận bão tuyết cứ xảy ra vào cuối tháng giêng, như năm ngoái, năm kia. Chỉ có khác chăng là năm ngoái, cơn bão đã được lên hàng cơn bão của thế kỷ. Nó đánh dấu sự khởi đầu của một cuộc hành trình cay đắng lắm, tủi nhục lắm, gian khổ lắm, nhưng cũng thật hãnh diện lắm. Nó bắt đầu bằng một tên Maddu cáo già đến từ Ấn Ðộ, và bây giờ, cũng vẫn trận bão tuyết, lại thêm một lần vần vũ cùng những tay Ấn độ khác.

Không, họ cũng như ông, chỉ là những con ngựa con trâu kéo cày. Người ta sai bảo và họ chỉ biết tuân lệnh.

Ông thấy họ. Ông đứng dậy bắt tay. Có phải họ là kẻ thù của ông hay không. Ông chỉ thấy những ánh mắt còn tỏa nét lo âu, và rụt rè phảng phất. Hai người trẻ, cỡ 25, 26 tuổi là cùng. Chắc họ tốt nghiệp đại học. Ông mời họ ngồi, nhưng họ vẫn đứng.

Ông thù ghét thằng Maddu vì hắn đã làm ông muốn điên khùng trong những ngày đầu tiên.

Không! Ông không thể trở thành một tên Maddu thứ hai, hèn hạ, đê tiện mà ông đã từng nguyền rủa.

Tự nhiên lòng ông cảm thấy bình an kỳ lạ.

Ngày cuối của một "cổ trắng"

Mười một giờ sáng ngày cuối tháng 4, ông Nguyễn có mặt ở hãng. Cái ngôi lầu năm tầng, cửa quay, lobby với ông già gác cổng trong bộ đồng phục màu vàng ngồi trước cái bàn gỗ vuông, và bốn thang máy. Và tầng bốn. Và hành lang trải thảm. Và phòng làm việc của ông đề 4B433 ở ngoài cạnh cửa phòng. Phía dưới là tấm bảng gồm tên ông và Sanje, dù Sanje đã rời ngôi lầu cách hai tháng trước.

Ông mở khóa, mở lại đèn. Phòng trống. Bàn kệ trống. Những chiếc ghế dựa cũng trống. Máy điện thoại có ai để message. Ông cũng chẳng buồn mở ra nghe. Ông có cảm giác mình thoát nợ, có phải ? Có nên mừng là từ đây, trí não mình sẽ không còn nóng bừng với những e-mail, điện thoại, những tin đồn, những hệ lụy dây dưa... Có nên mừng là từ đây, cái màn ảnh computer không còn thấy bóng ông mỗi ngày tám tiếng... Thoát. Thoát rồi. Cho dù cuộc ra đi này chẳng lấy gì vẻ vang. Khi người ta xem ông là một là một kẻ không còn năng lực sản xuất, không ích lợi gì cho tổ chức nữa. Có nghĩa là ông bị laid-off.

*

Dahu bắt đầu hỏi cung:

"Ông còn thiếu nợ hãng không?"

"Không."

"Ông còn làm chủ những tài sản của hãng không?"

"Có. Một computer cách đây 10 năm."

"Xin ông mang trả lại cho."

"Trời ơi, tao phải trả cái máy vất không ai thèm lượm?"

Dahu cười không nói.

"May mà tao còn giữ. Nếu không tao không biết làm sao để trả nợ."

Ông Nguyễn cay đắng nói.

"Ông còn giữ thẻ thiếu chịu của hãng không?"

"Có."

Ông Nguyễn lục bóp lấy thẻ Diner Club trao cho thằng sếp. Hắn lấy kéo cắt ngang cắt dọc tấm plastic.

"Tôi nghĩ với kinh nghiệm của ông, ông sẽ gặp may mắn..."

Dahu an ủi.

"Phải. Kinh nghiệm của một kẻ mang danh là "cổ trắng" được may mắn làm việc tại một trong những hãng danh tiếng nhất của nước Mỹ."

Ông trả lời châm biếm.

Dahu nói mình sắp hoàn tất thủ tục rồi. Bây giờ ông có thể trao chìa khóa phòng, thẻ nhân viên và ký giấy tờ cam kết.

"Cam kết gì?"

"Cam kết không được rủ người của công ty nếu ông lập một công ty mới. Không được xử dụng "tài sản xám" của công ty như sáng chế phát minh."

Ông vừa ký vừa đùa cợt:

“Sao hôm nay tao được hân hạnh ký nhiều giấy tờ vậy cà?”

Dahu cười nhún vai. Hắn là sếp bất đắc dĩ của ông, bởi vì sếp thật sự của ông đã cao bay xa chạy từ lâu.

“Ông tìm được việc chưa?”

“Tao chưa có ý định. Ở nhà lãnh tiền thất nghiệp một thời gian...”

“Ông có thể ghi danh những chương trình huấn nghệ. Hãng sẽ trả lại tiền học cho ông.”

“Tao biết.”

Ông trả lời cay đắng. Trời ơi, cơm áo gay go như thế ư. Chiến đấu đến bao giờ mới xong?

Ngày cuối cùng của một người "cổ trắng". Hiu quạnh. Cô đơn. Không ai chia sẻ đoạn trường. Cũng chẳng có ai bắt tay để ấm chút tình người còn sót lại. Dahu nói ông cần tôi đưa xuống lầu không. Có lẽ nó nghĩ ông phải cần tấm thẻ plastic để qua cửa điện tử. Ông trả lời cám ơn tao đi một mình cũng được. Tao biết lối xuống lầu khỏi cần qua cửa điện tử. Khi bước vào nhà vệ sinh, ông gặp thằng Mike. Xem hắn ốm và già thấy rõ. Ðáng lẽ hôm nay cũng là ngày chót của hắn. Nhưng nhờ tài chạy chọt, hắn được ở nán thêm một tháng nữa. Cứ mỗi lần gặp ông, hắn ném đôi mắt thảm sầu: Sao, mọi sự OK ông Nguyễn? Hôm nay cũng câu hỏi ấy, để ông Nguyễn phải la lên: Hết OK rồi. Hôm nay là ngày chót của tao. Hắn nói sorry. Ông hỏi lại hắn: Còn mày thế nào? Kiếm được việc chưa? Mike trả lời buồn bã: thật khó tìm việc trong thời buổi này. Tôi lo lắm, ông Nguyễn. Tôi còn nhà phải trả. Tôi còn cần bảo hiểm y tế. Con gái tôi mới 8 tuổi. Nó mới được đưa vào bệnh viện để giải phẫu tai. Vợ tôi thì không đi làm việc... Cả nhà chỉ nhờ vào tôi.

Mike kể lể. Trời ơi, rốt cùng, thân phận của người làm công không nghiệp đoàn thì vẫn như nhau, cho dù chức phận của hắn là một manager đi nữa. Rõ ràng, trong một xã hội tư bản, vua là chủ, là boss, là CEO, chairman. Chủ là Mặt Trời. Chủ thương thì nhờ ghét thì chịu. Chỉ có một lệnh của các ngài ban xuống là những kẻ làm công từ nhà cao cửa rộng, con học trường tư, hay chạy xe đắt tiền, bỗng xuống cấp làm kẻ bần dân thất nghiệp. Chỉ có một lệnh là nhà cửa bị đe dọa tịch thu hay phải bán lỗ để lấy tiền trả nợ... Chỉ có một lệnh là bao nhiêu mơ ước American dream đành phải vỡ đổ tan tành... Mike đã kể với ông: từ sau khi nhận giấy thông báo nghỉ việc, nó đã mang thêm chứng bệnh mất ngủ và hay nằm mơ thấy ác mộng. Một tay Mỹ nặng gần 170 lb, chức vụ manager mà mới mấy tháng sau khi nghe hung tin, lưng tự nhiên còm xuống, mắt trũng sâu như kẻ vô hồn.

Sao mà khủng khiếp đến như vậy. Có thật vậy không. Trước đây, khi nghe những chuyện liên quan về những người cổ trắng, ông không tin. Chẳng hạn một tay chuyên gia sau khi bị laid off đã xả súng bắn từ manager đến đồng nghiệp của hắn. Chẳng hạn một số người homeless thuộc thành phần trí thức, có nghĩa là có bằng cấp. Ông cho đó là trường hợp cá nhân, cá biệt, không phải là trường hợp chung. Bây giờ thì ông tin. Bởi chính ông là người trong cuộc. Ông đang thấy những nhát kéo tàn bạo. Ông đang thấm thía được thế nào là ngày cuối của một kẻ mang cà vạt, vắt óc, vắt não để đổi lại cơm áo. Ông đã thấy đoàn quân từ Ấn, Tàu, thỉnh thoảng Việt Nam qua theo diện nhập cảnh H1-B (thợ ngoại quốc) chiếm đoạt việc làm của ông và đồng nghiệp của ông. Bọn ông đã bất lực nhìn người này tiếp đến người khác ra đi. Chẳng có ai kêu ca, khiếu nại. Chỉ biết cúi đầu chấp nhận. Ðể rồi bắt đầu nặn óc viết resumé, tiếp tục một cuộc săn tìm khó khăn hay vô vọng trong lúc những bill trả tiền nhà, xe, y tế, học phí thì được gởi tới tấp. Kẻ may mắn thì còn nhà, xe. Kẻ không may mắn thì nhà mất, xe mất, và chưa chắc vợ cũng mất...

Có phải người cổ trắng là người cô thế nhất. Phải không? Không có nghiệp đoàn để cổ trắng chúng ta đoàn kết lại. Lực lượng thì đông, nhưng mỗi thân phận dường như chỉ biết lấy mình. Những năm đầu tiên, khi chưa có cuộc cách mạng về Internet hay outsourcing, có lẽ ngày tháng của họ được tô màu. Chủ hãnh diện. Khách hàng bằng lòng. Họ không làm việc theo giờ, không có overtime phụ trội, nhưng khi cần, họ làm việc chết bỏ. Họ bị dựng đầu vào nửa đêm. Ðôi khi họ phải ứng trực ngày cuối tuần. Và để bù lại, chủ vinh danh bằng cái bằng tuyên dương công trạng, và dĩ nhiên, lương sẽ được tăng, chức vụ sẽ được đề bạt. Họ mua nhà lớn, nhiều phòng. Con họ học trường tư thay vì trường công. Ôi đời sống quá đẹp. Tương lai quá huy hoàng. Ðể bù lại những năm tháng lao khổ nơi trường ốc hay những số tiền nợ mà họ đã vay từ nhà băng để trả học phí.

Họ không chuẩn bị một ngày đại bàng gãy cánh, đời là vô thường nay còn mai mất. Họ cứ đinh ninh việc làm của họ sẽ vững bền mãi mãi. Họ cứ nghĩ rằng hãng họ làm là hãng danh tiếng nhất nhì, chừng nào hãng vỡ nợ, họ mới ra đi. Dù không có nghiệp đoàn để bênh vực quyền lợi, nhưng họ cũng chẳng cần bận tâm. Hơn nữa, còn có mớ kinh nghiệm phòng thân, họ sẽ dễ dàng kiếm việc tương xứng.

Có phải không?

Họ lầm. Kinh nghiệm của họ chỉ là kinh nghiệm lỗi thời. Khoa học kỹ thuật đã tiến quá nhanh. Ngôn ngữ C, hay COBOL của họ cũng đành bị lép vế với C++ hay Java. UNIX của họ cũng bị lép vế trước SAP hay WEB... Ðó là kinh nghiệm không cập nhật hoá. Cho dù họ biết vậy, nhưng một hai khóa học cũng không làm kẻ mướn hài lòng. Phải có kinh nghiệm on-hand. Trời ơi, các ông hãy cho tôi cơ hội. Dù không on-hand nhưng tôi tin tôi sẽ làm được. Ông nhớ có lần ông thách đố với một đám ba tên thi nhau phỏng vấn ông. Dễ quá mà. Ngày trước không quen thì ngày sau sẽ quen, hãy cho tôi cơ hội. Khái niệm, lý thuyết, ngôn ngữ nào cũng chuyên chở mục đích. Không, ông phải có kinh nghiệm thực tế, tối thiểu ba năm. Họ lầm. Ông lầm. Cổ trắng lầm. Lầm to vì không thể biết lòng dạ của chủ. Chủ hất họ vì có đoàn quân cổ trắng khác từ Ấn Ðộ, Trung Hoa, Việt Nam qua Mỹ theo diện H1-B sẵn sàng nhảy vào, chấp nhận đồng lương với bất cứ giá nào. Họ lầm. Bởi vì còn có hàng vạn agency khắp hoàn cầu sẵn sàng nhảy vào cung cấp chuyên viên cần thiết, dù hợp đồng chỉ một tuần hay một năm, khỏi cần quyền lợi như bảo hiểm sức khoẻ, hay tiền cấp dưỡng v.v... Rõ ràng, họ thuộc thành phần mà xã hội trọng đãi, nhưng họ lại bị cô thế hơn ai hết.

Ông đang lắng nghe nỗi lòng của mình. Ông hiểu sau khi rời khỏi chỗ này, thật khó cho ông để tìm một việc làm khác. Tuổi ông đã cao. Ông cũng không thể bay nhảy như đám trẻ. Trí óc của ông cũng không minh mẫn như họ. Gần cả đời quanh quẩn với công việc quen thuộc, ngỡ đã an phận bám trụ chờ ngày về hưu, nhưng rốt cùng, ông cũng như mọi người bị tống xuất một cách không thương xót, không tình nghĩa. Ngay cả một cái computer cũ mèm cũng phải giao hoàn lại huống gì một thân phận con người. Như chiếc thẻ Diner Club, thẻ điện thoại, thẻ nhân viên mà Dahu đã cắt ngang cắt dọc không thương xót.

Thật là bất công. Ông không thể hiểu nổi. Trong khi có những kẻ làm việc mà chỉ chờ chực nhảy, bí mật gởi resumé đến các hãng khác, không tha thiết gì đến việc làm, không thủy, không chung, nhưng vào ngày cuối của hắn, cả bọn còn lại phải đóng tiền dẫn nhau đến nhà hàng, rồi chủ, sếp nói lời chia tay, vinh danh, chúc mừng, cám ơn về những đóng góp. Còn những kẻ sa cơ, suốt đời tận tụy, thì bị đối xử như tên tội đồ hay kẻ di dân bất hợp pháp, không một chút tình thân, không một giọt nước mắt dư thừa, không cái bắt tay để an ủi. May mắn thì được thông báo trước để chuẩn bị tinh thần, để xin việc khác, để dành thì giờ gởi resumé. Nếu không may mắn thì bị an ninh áp tải ra khỏi cửa hãng, không kịp ngoái cổ lại từ giã đồng nghiệp của mình.

Như vậy, ông Nguyễn là kẻ được may mắn. Ông phải cám ơn GLOBAL IT. Có phải vậy không?

Tháng 7. 2003


[1]software: nhu liệu