https://www.designerds.be/slot-bonus/

https://greenwichvillagevabeach.com/slot-bonus/

https://junex.com/slot-bonus-100/

https://thefranklinjohnstongroup.com/slot-deposit-pulsa/

https://socialbalance.be/slot-deposit-dana/

https://www.delakkerij.be/slot-nexus/

https://lobsterbaylombok.com/slot-deposit-pulsa/

https://hort.hdut.edu.tw/wp-includes/slot-nexus/

https://boogoomusicfest.com

https://thesummerhouseapts.com/wp-content/slot-nexus-engine/

https://spaziosicurezzaweb.com/slot-deposit-pulsa/

https://namaaestetic.com/wp-content/slot-nexus-engine/

Đăng nhập quanvan.net để đăng bài và bình luận trên DIỄN ĐÀN QUÁN VĂN.


Categories

Groups

BÀI TRÊN DIỄN ĐÀN

TRUMP BỊ MẤT TRÍ! –TRUMP’S BEEN LOSING HIS MIND!
Bệnh Mất Trí – Alzheimer là chứng bệnh gây ra tình trạng mất trí nhớ, làm mất các chức năng nhận thức của bệnh nhân. Các triệu chứng là mất trí nhớ, lẫn lộn hay khó khăn diễn đạt bằng lời nói; bệnh nhân không kiểm soát được hành vi của mình và nhầm lẫn thời gian hoặc địa điểm. Th…Read more

TRUMP LÀ BẢN SAO CỦA HITLER!
TRUMP IS HITLER’S COPY!
Trong thời gian gần đây Trump đã tiến tới bước cuối cùng để trở thành một Bản Sao Hoàn Chỉnh Của Đức Quốc Xã-Hitler. Rất rõ ràng Trump đã triệt để áp dụng chính xác những chiến lược và luận điệu chính trị của Đức Quốc Xã-Hitler trên các trang mạn…Read more

TRUMP TRẢ THÙ – TRUMP’S REVENGE
Vào tháng 3/2023 vừa qua Trump phát biểu tại Hội Nghị Hành Động Chính Trị Bảo Thủ và Trump cũng đã đặc biệt tỏ ra không e ngại, lo lắng gì khi nói ra rõ ràng về những ý định của Trump nếu thắng cử tổng thống năm 2024 rồi sau đó sẽ mở rộng quyền lực của TT. Trump và gọi đó là “Trận Chiến Cuố…Read more

THẨM PHÁN ENGORON ĐÃ ĐỐI XỬ NGOẠI LỆ VỚI TRUMP!
TRUMP WAS TREATED EXCEPTIONALLY BY THE JUDGE ENGORON!
Trong suốt chiều dài lịch sử tư pháp và toà án hơn bốn trăm năm của Mỹ Quốc kể từ thời kỳ thuộc địa của Anh Quốc đến thời gian độc lập cho tới nay chưa có một thẩm phán nào đã đối xử với một nghi pha…Read more

Bến đò năm xưa. TN5
Tiếng còi trong đêm, 1.

Nắng chưa lên bến đò còn vắng khách,
Cỏ ven sông lặng lẽ dưới sương mờ.
Từ phương đông ánh vàng vừa ló dạng,
Người lái đò lặng lẽ đến bên sông.
Lần này, không biết là bao lần đếm,
Nàng âm thầm, đưa đón khách sang sông.
*
**
Kìa, đôi mái chè…Read more

Recently Active Members

Help tiinz to grow!

$5.00

Community

  • Dragon Queen
  • Gia Định
  • Inner Peace
  • Toàn phong
  • Sebastian
  • Natalia
  • Volyphi
  • Laronda Cole
  • tnguyenpfsgmailcom
  • CryptoEnthusiast
  • Sebastian
  • Sebastian
  • Lê Diễm Diễm
  • Sebastián
  • Phan nhật bắc
  • Sebastian
  • mstboulevardier
  • dfyplrproducts
  • Vanle
  • Dragon Queen
  • Levan
  • BestofPanda
  • anna wright
  • edwardlorilla2189towerbloggercom
  • MinhAnh
  • David Richardson
  • Dragon Queen
  • martiphypro
  • lophi0505
  • anekalaptopp1
  • viet anh dt
  • Hoàng Dũng
  • ReadingMadeEasier
  • Andie Untamed✨
  • Video Game Review
  • Toanphong
  • Dr. Joseph Suglia
  • bestwriterblogger
  • Meina Ibr
  • Nguyễn Tuấn
  • juliusarrell
  • Dragon Queen
  • Sebastian
  • Trần Đông Phong
  • Sebastian
  • Miyoshi
  • huynhbatueduong
  • thao phuong
  • loganpaulreview
  • Đậu que Ohtra

Advertisement

Subscribe to Blog via Email

Enter your email address to subscribe to this blog and receive notifications of new posts by email.

Join 106 other subscribers
loader-image

Họ phải trả một giá rất đắt cho chủ thuyền vì “món hàng” bất thường.

Cái thuyền họ thuê để chở linh cữu là một loại thuyền nhỏ, chỉ dài hơn mười thước. Mấy tấm đan bằng tre lồng vào nhau, rồi uốn cong ở khoảng giữa thuyền để che mưa nắng. Kiệu chở Mẫu Ðơn tới, nhưng nàng vẫn ngồi yên trong kiệu, đầu cúi xuống, một nửa mặt bị cái nón tang che khuất, trong lúc linh cữu được khiêng lên đầu thuyền. Người ta phủ vải đỏ lên linh cữu, để cho khách trên những thuyền qua lại không bất mãn vì gặp phải “vận sui.” Một giải lụa trắng quấn ngang linh cữu ở phía trước, mang tên tuổi người chết. Xếp Thuyết và thằng cháu họ Lưu có mặt tại chỗ để trợ giúp.

Ông bà Vương cũng hiện diện, đứng bên người góa phụ tới phút cuối cùng. Khi tất cả đã sẵn sàng, người đầy tớ già và ông Vương thận trọng đưa nàng xuống bờ sông, bước qua mảnh cầu ván lung lay để lên thuyền. Chỗ đuôi thuyền, bên dưới cái mái bằng chiếu, đã trải sẵn giường và gối, dành riêng cho Mẫu Ðơn ngồi hoặc nằm nghỉ. Cuộc hành trình phải mất khoảng mười ngày – vượt qua sông Dương Tử, đi vào Ðại Hà để tới Tô Châu.

Khi mảnh cầu ván được kéo lên, nàng đứng dậy cám ơn tất cả bạn bè đã đến tiễn đưa. Mọi người trông thấy khuôn mặt che một nửa của nàng, và đôi môi căng mọng dưới cái nón tang; nàng đứng như một pho tượng, im lặng như đã chết.

Ðại Hà bên dưới Cao Vũ lúc nào cũng đầy thuyền bè trên đường đi Dương Châu, một trung tâm xa hoa náo nhiệt thời đó. Thủy lộ này rộng chừng hơn mười thước, chỗ rộng chỗ hẹp tùy theo địa hình từng nơi, và lúc nào cũng đầy thuyền tam bản, thuyền buồm, và thuyền tư nhân; có những thuyền trang hoàng cực kỳ sang trọng, trong khi nhiều thuyền khác thì trơ trụi không có gì đặc sắc. Không khí vang lên tiếng mái chèo đập nước, tiếng những cây sào đụng nhau, tiếng chân thình thịch của ngư phủ trên ván thuyền, tiếng kẽo kẹt của cột buồm, và tiếng động khi thuyền đụng xô phải nhau. Ðây là một phương tiện chuyên chở vừa nhàn nhã vừa thoải mái. Khi đi qua những thị trấn, quang cảnh luôn luôn thay đổi, và thuyền bè mắc kẹt phải dừng lại là việc thường xảy ra. Hai bên bờ là nhà cửa và tiệm quán. Tại những chỗ bờ cao, người ta phải đục vào bờ đất để làm nhà vòm cho gần mặt nước. Người ta phải thả gầu xuống để múc nước từ Ðại Hà, và đàn bà quỳ bên bờ, đập giặt quần áo trên những tảng đá nhẵn thín. Về mùa hạ, hai bên bờ vang lên tiếng chày giặt quần áo cùng với tiếng cười của đàn bà, con cái của họ đeo trên lưng hoặc chơi đùa bên cạnh. Ðặc biệt vào những đêm trăng, dù mùa xuân hay mùa hạ, tiếng chày giặt quần áo và tiếng nói chuyện mỗi lúc một gia tăng khi thuyền tới gần một thị trấn, bởi vì đàn bà thích giặt quần áo vào một đêm mát mẻ. Thanh niên cũng đi dạo dọc theo hai bên bờ, để ngắm trăng, hoặc là ngắm hàng dãy mông phụ nữ chổng lên, khi họ cúi xuống giặt quần áo.

Khi ra ngoài miền quê, Ðại Hà thường rộng hơn, và buồm được kéo lên để tận dụng sức gió. Khi thuyền lướt qua những bờ xanh xanh, những cánh buồm cong tạo ra một hình ảnh nổi bật trên bầu trời bình minh hoặc hoàng hôn. Vào cái nóng giữa ban ngày, ngư phủ thường cởi trần, ngồi nghỉ và hút thuốc, mớ tóc đuôi xam quấn ngang đầu; lưng, vai và chân tay chắc nịch của họ bóng loáng duới ánh mặt trời.

Ngay khi con thuyền bắt đầu khởi hành, và các khách tiễn đưa ra về, Mẫu Ðơn cảm thấy một nỗi cô đơn và một sự tự do lạ lùng; cuối cùng cuộc hành trình của nàng đã bắt đầu. Những cơn náo động và ngập ngừng, và những quyết định vào phút cuối cùng nên mang theo hoặc bỏ lại gì đã qua rồi. Nàng cảm thấy một sự kết thúc rõ rệt; cuối cùng nàng được lên đường đi vào một tương lai mới cùng với những vấn đề mới, một cảm giác cô đơn cùng cực, như cầm chiếc gương soi vào tâm hồn, để khép lại một chương và mở ra một chương khác. Tương lai thì mơ hồ và tối tăm, chưa hiện rõ. Nàng cảm thấy bên trong nàng một rung động mới lạ.

Gió mát mùa xuân và quang cảnh xanh tươi miền quê dường như đã giúp đầu óc nàng sáng sủa hơn và nàng có thể thở một cách tự do, và suy nghĩ trong cái tâm trạng của một sự cô đơn sung sướng. Nàng nằm ngả trên gối, lơ dãng nhìn lên mái chiếu trước mặt. Nàng đã liệng bỏ chiếc áo tang, và mặc một bộ đồ ngủ gọn ghẽ. Vào lúc này, hiển nhiên nàng không giống một goá phụ để tang. Nàng hoàn toàn quên hai vợ chồng người lái thuyền và đứa con gái của họ, một thiếu nữ có bộ mặt trái táo, miệng tươi cười, và bộ ngực nở tròn trịa. Liên Xung ngồi một mình ở đầu thuyền; dẫu sao nàng không hề quan tâm đến một chuyện gì. Nàng buông xõa tóc, và hai tay ôm gối trong một vẻ mơ màng tới cái tương lai vô định. Nàng biết nếu nàng bỏ nhà chồng ngay thì sẽ gây tai tiếng, và cha mẹ nàng sẽ phản đối. Nhưng nàng biết rằng số phận của nàng là ở trong tay nàng, và sẽ không cho ai được can dự vào. Nàng đốt một điếu thuốc lá, rít một hơi, và nằm nghiêng người, một kiểu nằm hở hang mà không một phụ nữ tư cách nào dám làm giữa ban ngày. Mắt nàng nhìn xuống chiếc nhẫn kim cương nhỏ lấp lánh trên ngón tay. Tần Châu đã tặng nàng chiếc nhẫn này. Nàng cử động bàn tay và ngắm viên kim cương lấp lánh dưới ánh mặt trời. Nàng khẽ nhắc tên Tần Châu.

Nàng được tặng chiếc nhẫn sau một vụ cãi nhau dữ dội. Tần Châu và nàng đều nóng tính. Hai người tình đã từng cãi nhau nhiều lần, nhưng tình yêu bao giờ cũng chiến thắng. Chiếc nhẫn là một nhắc nhở cho chiến thắng ấy. Nàng đã quên không biết hai người cãi nhau về chuyện gì, nhưng nàng không quên cái vẻ dịu dàng trong mắt chàng khi chàng đưa nàng món quà tặng – một cái nhìn đã làm cho sự khác nhau về quan điểm giữa hai người trở nên không quan trọng. Tần Châu bao giờ cũng như vậy. Chàng có một bản năng mua được những thứ nàng thích – những đồ vật nho nhỏ của phụ nữ, như son môi Dương Châu hoặc một tấm lưới tóc của Tô Châu – và dâng cho nàng bằng một cái nhìn quyến rũ của lòng tôn thờ mê mẩn.

Bây giờ nàng thực sự cô đơn và độc lập lần đầu trong đời. Không ai có thể biết được niềm vui vô cùng được cô đơn và tự do, nếu không đang yêu. Tuy thế trái tim nàng cũng là nỗi buồn của niềm mơ ước không cùng, một cái gì là thảm kịch trong đời nàng. Nàng ước mong sớm được gặp lại Tần Châu.

Có lẽ hai ngày nữa nàng có thể gặp chàng tại Cửu Giang. Nàng đã gửi trước một lá thư và tin chắc chàng sẽ tới. Cái ý tưởng ấy làm tim nàng đập mạnh. Ðối với Mẫu Ðơn, ao ước một điều gì có nghĩa là đã có được rồi. Tần Châu là lý do khiến nàng muốn mau chóng bỏ cuộc đời goá phụ. Chàng đang sống với gia đình tại Tô Châu, nhưng chàng có bà nội và hai người cô sống tại Hàng Châu, vì đó là nguyên quán của tổ tiên chàng. Mỗi năm nàng về Hàng Châu thăm mẹ vài ba lần, và lén chồng gặp lại Tần Châu trong khách sạn, và trong những chuyến du ngoạn sắp đặt trước tới núi Thiên Mộc. Một lần nàng gặp chàng trong nhà người bạn thân là Bạch Huệ. Cả hai bị thúc đẩy bởi một sức mạnh lớn hơn chính con người của họ. Trong mỗi lần gặp nhau, sự điên cuồng của hoàn cảnh tuyệt vọng lưu lại trong lòng họ một nỗi khổ sở với niềm khát khao và buồn bã kéo dài cho tới lúc họ gặp nhau lại. Bề ngoài, họ sống một cuộc đời bình thường.

Con thuyền vẫn lướt trôi, tiếng kẽo kẹt nhịp nhàng của mái chèo, tiếng nước đập rào rào đẩy nàng chìm sâu vào mơ mộng. Chẳng mấy chốc nàng sẽ được tự do, và hai người sẽ gặp lại nhau vài ba lần một năm, nhưng nàng sẽ làm gì trong thời gian còn lại? Có thể tiếp tục như thế mãi được không? Tim nàng đập dồn dập khi nàng nghĩ đến giấc mộng của nàng – giấc mộng hai người sẽ thuộc về nhau hoàn toàn, nàng sẽ chiếm được Tần Châu trọn vẹn, không có ai bên cạnh quấy rầy. Nàng biết nàng ích kỷ, nhưng Tần Châu yêu nàng rất say mê, và chỉ ước ao được kết hôn với nàng. Nàng là mối tình đầu tiên và duy nhất của chàng. Mẫu Ðơn không thù ghét gì bà Tần; nàng đã gặp bà ta cùng với hai con. Bà ta có dáng rất mảnh mai đặc biệt của người Tô Châu, và trông không tệ. Nếu Tần Châu yêu nàng nhiều như nàng yêu chàng, tại sao chàng không có can đảm và quyết tâm hy sinh tất cả vì nàng? Ðấy là câu hỏi cứ làm bận tâm trí nàng.

Nàng lấy từ rương ra một bản sao chép lá thư nàng viết cho chàng, ngay khi nàng biết nàng sẽ rời Cao Vũ. Nàng cúi nhìn những hàng chữ của nàng, như thể là đọc lại thư thì nàng lại một lần nữa diễn tả đầy đủ nồng độ của nỗi ao ước trong lòng.

“Tần Châu yêu dấu

Chồng em chết một tuần lễ rồi. Trái với những ước lệ xã hội, em sẽ tự giải thoát, dù phải trả giá nào, để được gần anh. Anh có sung sướng nghe tin này không? Em sẽ về Cao Xương và phải đi ngang qua Cửu Giang vào ngày 26 hoặc 27. Xin anh đến gặp em. Em có rất nhiều điều cần phải bàn luận với anh, và em phải gặp anh và biết ý kiến của anh trước cuộc khủng hoảng của đời em. Hãy nhắn lời cho người gác cổng tại Ðền Kim Sơn, để em biết sẽ gặp anh ở đâu.

Em biết rằng anh sẽ giữ kín việc này khỏi tất cả những miệng lưỡi ngồi lê đôi mách, những kẻ không quan tâm đến em một chút nào. Về phần em, em đã chuẩn bị hy sinh tất cả để thuộc về anh hoàn toàn. Em không biết anh sẽ nghĩ gì về em. Em không muốn phá đổ hạnh phúc gia đình của anh. Em không bao giờ muốn làm vợ anh đau lòng. Nhưng chúng ta có thể làm gì, nếu chúng ta yêu nhau điên cuồng?

Em cũng xét hoàn cảnh của anh, từng điểm một, và thấu hiểu sự khó khăn của anh. Em sẵn sàng chờ đợi hai hoặc ba năm để được làm vợ anh, nếu em biết anh yêu em cũng nhiều như em yêu anh. Em có thể chịu đựng được tất cả nếu em có tình yêu của anh.

Vào thời điểm này trong đời, em phải nghĩ đến tương lai em, tương lai chúng ta. Ðôi khi em ước mong anh ở bên em, từng phút một, và không có cái gì và người nào có thể xen vào giữa hai ta. Em không muốn tình yêu của chúng ta là gánh nặng và hối hận cho anh. Em không có ý định bỏ anh – không bao giờ. Em sẵn sàng từ bỏ tất cả, hy sinh tất cả, để được ở bên anh. Anh có thể làm nhiều như thế cho em được không?

Em nhận thức đầy đủ cái hoàn cảnh tiến thoái lưỡng nan của chúng ta, và tình yêu biến chúng ta thành nô lệ của nhau. Nhưng xin hiểu rõ rằng, em không muốn có thành kiến với anh. Em không muốn bất cứ một cái gì không xuất phát từ ý chí tự do và tình yêu của chúng ta.

Em không biết nghĩ gì. Em biết anh rất yêu em, và em nghĩ đi nghĩ lại cho đến lúc lòng dạ em tơ vò trăm mối. Bao giờ cũng cùng một câu hỏi: nếu chúng ta yêu nhau nhiều đến thế, làm thế nào chúng ta sống xa nhau được? Anh có yêu em đủ để chấp nhận cái bước khởi đầu này không?

Xin tha thứ em vì lá thư này. Xin tha thứ em vì sự điên rồ này. Xin tha thứ em vì đã yêu anh nhiều đến thế!!!

Chính vì nỗi phiền muộn và niềm ao ước thiết tha được gần anh mà em viết lá thư này.

Một lần nữa, em muốn anh nhớ rằng em sẽ hoàn toàn tự do vào tháng Tám, và sẽ là vợ anh bất cứ khi nào anh muốn thế, bất cứ khi nào anh tự do.

Xin đừng nghĩ xấu cho em, bởi vì tất cả những gì em làm chỉ là vì tình yêu của em đối với anh.

Em yêu anh. Em cần anh. Em đang rất thèm gặp anh.

Em của anh mãi mãi,

Mẫu Ðơn”

Mẫu Ðơn buồn bã nhớ lại rằng mới một năm trước đây, nàng làm chuyến đi với chồng tới nhiệm sở của chồng. Một năm trước đây Ðình Diêm, chồng nàng, đã thực hiện được lời khoe khoang một ngày nào đó hắn sẽ nắm được một chức vụ béo bở. Thân phụ hắn khuyến khích hắn. Ông nội hắn là một chân tú tài, được bổ nhiệm vào chức huyện quan tại tỉnh Quí Châu xa xôi. Gia đình hắn vẫn tự nhận thuộc hàng danh giá, mặc dầu tú tài là cấp bậc thấp kém nhất trong hàng sĩ phu, và cái chức vụ tại một nơi hẻo lánh, nghèo nàn thuộc một huyện miền núi của Quí Châu thực không có gì đáng thèm muốn. Ông nội hắn thù ghét cái nơi ấy và chết tại đấy; nhưng sau khi ông ta chết, Quí Châu trở thành một huyền thoại của gia đình; họ mô tả cho tất cả láng giềng tại Cao Xương biết rằng đó là một nơi của trù phú, quyền thế và vinh quang. Bà mẹ chồng của Mẫu Ðơn không bao giờ chán kể cho bạn bè về cái ngày bà ta được vào làm dâu nhà quan huyện, một cô dâu ngồi kiệu hoa bằng chính chiếc kiệu bọc nhung màu lục của quan huyện. Cái kiệu ấy bây giờ phủ bằng nhung bạc màu đã sờn rách, đứng trong góc hành lang, như là một biểu tượng cho vinh quang của gia đình.

Bố chồng nàng trước kia là kế toán viên cho một phủ môn trong lúc chính quan phủ bị tù vì khai man sổ thuế và công nho. Theo nguyên tắc hành chánh của triều đình, viên kế toán phải chịu phần lớn trách nhiệm, và ông ta bị cách chức và suốt đời sẽ không được đảm nhiệm bất cứ một công vụ gì. Tuy nhiên trong thời gian tại chức, ông đã đục khoét được nhiều tiền, đủ để mua nhà đất tại Cao Xương, và sống dư dả suốt đời. Gia đình ông ta ngày một thịnh vượng hơn. Người con trưởng trở thành một đại thương gia, mua các nông phẩm như thuốc lá, hạt cải, và đậu của nông dân rồi đem bán tại Hán Khẩu và Tô Châu. Người con trai thứ hai trông coi một nông trại. Ông ta có nhiều cháu nội và tạo lập được một gia đình đáng trọng vọng, nếu không phải là một gia đình giầu nhất, trong số những gia đình địa chủ đại phú tại Cao Xương. Ông ta mong muốn người con trai thứ ba là Ðình Diêm, phải xuất chính để vinh danh tổ tiên.

Hồi còn nhỏ, Ðình Diêm không bao giờ thích học hành. Hắn không bao giờ có thể thi đậu để làm quan, và hắn cũng chẳng bao giờ đi thi. Tuy nhiên hắn đã tiến lên rất đúng cách. Hắn kết thân với những người có thể giúp được hắn. Hắn cung phụng rượu và gái cho những người mà hắn tin rằng một ngày nào đó sẽ giúp được hắn. Hắn thành công xin được chức trưởng phòng hành chánh tại Sở Thuế Muối Cao Vũ, một chức vụ ngoài ước mong của hắn. Ông giám đốc Thuyết là chú của một người mà hắn đã hết sức cung phụng, và cái địa vị tại Cao Vũ được coi là “béo bở.”

Khi được tin bổ nhiệm tại Cao Vũ, Ðình Diêm nói với Mẫu Ðơn, “Ta đã bảo nàng mà. Nàng tưởng chồng nàng chỉ biết đi chơi bời hết đêm này đến đêm khác. Bây giờ nàng thấy đấy. Chỉ một hai năm là ta sẽ khá to.”

Mẫu Ðơn rất dửng dưng. Hắn nói tiếp:

– Và bây giờ ta mang về cái tin vui mừng này. Chúng ta sẽ khá. Vậy mà nàng không khen ngợi chúc mừng ta.

Mẫu Ðơn trả lời cộc lốc, “Hãy tự chúc mừng đI.”

Ðình Diêm rất hậm hực và thất vọng. Ðây là một người con gái rất đẹp và tươi vui duyên dáng mà hắn lấy được. Ðúng vậy, người ta không biết rõ một người đàn bà cho đến khi kết hôn với người ấy.

Ngay đêm đó, khi hắn sung sướng và rất âu yếm tình tứ, nàng vẫn từ chối không ngủ với hắn. Sự thực là nàng ghê tởm sự đụng chạm đến con người này, một người đã trở thành chồng nàng mà nàng không còn một lựa chọn nào khác.

Tiệc ăn mừng được tổ chức trước khi hắn đi nhậm chức – ông bà Phí già không để lỡ cơ hội – hàng loạt tiệc mừng có trình diễn ca hát kéo dài ba ngày, tất cả những người quen biết trong vùng đều được mời. Họ không quản ngại tốn kém, ngay chiếc kiệu cũ cũng được đem bọc lại và đưa ra trưng bày. Bà Phí già không ngừng nhìn quanh; bà vừa nói chuyện vừa quan sát khách khứa chung quanh. Bà muốn ai cũng phải trông thấy bà.

Trong những bữa tiệc ấy, Mẫu Ðơn đã cố gắng mỉm cười cho thích hợp, và nàng tự trách vì vẻ tươi cười ấy. Về mặt tài chánh, địa vị trưởng phòng hành chánh của một sở thuế muối địa phương thì có gì đáng vui mừng đâu; và về mặt khác, theo tước vị danh phận, địa vị ấy không đáng ăn mừng; nhưng đối với dân chúng tại Cao Xương thì nó oai phong lắm. Cái thùng càng rỗng thì tiếng kêu càng to. Hơn nữa đây chỉ là một sở thuế muối. Các thương gia muối tại Dương Châu là những triệu phú, và mọi người đều biết thế.

Nói cho đúng thì chính cái ý nghĩa của chức vụ này, bảo vệ luật pháp chống lại các triệu phú, đã khiến đầu ông già Phí lảo đảo sung sướng. Con trai ông không cần phải tới gặp các nhà đại phú thương; họ phải tới gặp con ông. Sự việc này đã được công khai thảo luận trong những bữa ăn gia đình, và Mẫu Ðơn hết sức kinh ngạc.

Mười ngày sau, Ðình Diêm và vợ dùng đường thủy Ðại Hà đi nhận chức vụ và được tiễn đưa linh đình. Riêng quà của bạn hữu đã thu được tới ba bốn trăm quan. Gia đình nhà họ Phí đã “lên voi” trong con mắt của người dân Cao Xương.

Ðình Diêm quả thực rất phấn chấn, và trong một lúc chỉ có hai người, hắn nói với vợ, “Bây giờ nàng thấy ta chưa? Ta sẽ cho nàng biết.”

Mẫu Ðơn trả lời, “Nếu ông cứ tiếp tục đĩ điếm thì tương lai của ông không có giới hạn, và chẳng mấy chốc ông có thể lên tới Bắc Kinh.”

Mặt nàng là một vẻ xa vắng trong cuộc hành trình một năm trước. Mắt nàng đau, và nàng sợ ánh nắng gay gắt. Tất cả những gì chung quanh, chính nàng, chồng nàng, chuyến đi về phía bắc nhận nhiệm sở, là những thứ nàng không hiểu và cũng không coi trọng. Thật là một tâm trạng trống rỗng đáng sợ! Thế mà nàng còn quá trẻ.

Khi tới gần Ngô Giang, gần lối vào Thái Hồ, nàng lấy hết can đảm xin chồng cho thuyền đi hướng Mộc Ðô, để nàng được nhìn rõ quang cảnh của Thái Hồ.

Chồng nàng hỏi, “Ðể làm gì?”

Nàng không thể trả lời. Không ai có thể trả lời câu hỏi đó. Nhìn cái khoảng nước mênh mông ấy với mục đích gì? Nàng im lặng và không đòi hỏi nữa.

Người chồng làm một cố gắng để tỏ ra vui vẻ, “Ta muốn nói hôm nay là một ngày sương mù u ám. Sương mù sẽ dầy đặc trên mặt hồ. Nàng sẽ không nhìn thấy gì trên hồ.”

– Ở Mộc Ðô có nhiều con gái đẹp. Ông không muốn nhìn những người đẹp của Tô Châu hay sao?

Mộc Ðô là một khu vực trồng hoa và vườn cây ở ngoại ô của Tô Châu.

– Nàng bây giờ cũng tỏ ra đồi bại.

– Không, tôi không phải thế. Ông có thể nhìn những con gái đẹp còn tôi ngắm sương mù. Nó sẽ cho tôi cái cảm tưởng tôi đang trôi trong một cõi mù sương, cô đơn và lạc lõng ở một chốn không tên.

Nói cho công bằng, Ðình Diêm không còn muốn tìm hiểu vợ nữa. Ði trong sương mù giống như đi trên mây, một trạng thái tâm hồn xa hoa và hạnh phúc, một nét đặc biệt của nàng, nhưng người khác không hiểu được. Ðình Diêm nói:

– Nàng điên đầu rồi.

– Phải, tôi thế đấy.

Nhưng rồi họ không đi ngang qua Mộc Ðô. Nàng không thể nói cuộc đời nàng tại Cao Vũ tệ hơn hay tốt hơn.

*

Có một sự việc xảy ra sau khi đi qua Dương Châu, cách sông Dương Tử vài dặm. Trong một vụ kẹt thuyền, người lái thuyền làm đổ một chiếc đèn lồng trên thuyền của một vị đại quan. Chiếc đèn lồng mang tên dòng họ và chức vị của ông quan viết màu đỏ, với mục đích thông báo cho nhân viên quan thuế và cảnh sát. Khi biết đó là thuyền của một “đại thần ở Bắc kinh”, thì người lái thuyền cực kỳ hoảng sợ. Hắn tự đến quỳ trước đầu thuyền và xin chịu tội. Nhưng hắn không bị đánh đòn như thường lệ. Ông quan chỉ cười và bãi bỏ vụ trừng phạt này. Người lái thuyền và mọi người vái lậy nhiều lần để bày tỏ lòng biết ơn trước sự rộng lượng của ông quan. Họ lắc đầu và không tin có thể được tha một cách dễ dàng như thế. Mẫu Ðơn nhìn sự huyên náo và chiếc đèn lồng hình chữ nhật bể vỡ trên đầu một cây sào tre, bập bềnh trên mặt nước. Nàng không nhìn được rõ tên của ông quan, chỉ trông thấy hàng chữ “đại thần Bắc Kinh,” nhưng nàng không chú ý.

Khi tới bờ sông Dương Tử, thuyền của nàng chạy theo một đường vòng, lượn quanh một hòn đảo nhỏ; ngay khi vòng qua hòn đảo và tới Cửu Giang, nàng trông thấy cái mái vàng của ngôi Ðền Kim Sơn nổi tiếng, lóng lánh trong ánh nắng tháng Tư. Ðây là một kiến trúc vĩ đại có những cây cột đỏ, đà sơn son, và cái mái chói lọi.

Làm sao có thể tả được cái tâm trạng sôi nổi của Mẫu Ðơn khi nàng trông thấy cái mái cong sáng lấp lánh của Ðền Kim Sơn? Nàng hy vọng gặp được Tần Châu tại đây. Làm sao có thể nói hết được sự hoà hợp giữa niềm mơ ước và mê say đã khiến tâm hồn nàng điên cuồng? Tần Châu là biểu tượng cho một cái gì rất tốt đẹp, mà toàn thể con người nữ ở nàng ao ước mong muốn, bất kể những cản trở, những tục lệ, những luật lệ và luân lý của xã hội. Sự háo hức của Mẫu Ðơn, lý tưởng của nàng và sự thông minh bén nhạy tập trung vào mối tình đầu này mà nàng không thể và không muốn tìm cách quên đi. Nàng còn thích thú cả những cơn đau tàn ác khi hai người chia ly; nàng ấp ủ những kỷ niệm hành hạ của những lần gặp gỡ lén lút. Những kỷ niệm ấy có thực đến nỗi trở thành cái gì có ý nghĩa duy nhất của cuộc đời này; những kỷ niệm ấy thực hơn là đời sống hàng ngày của nàng. Phải chăng cuộc đời chỉ là một sự trình diễn ngắn ngủi nếu không có ý nghĩa vĩnh cửu?

Chỉ mình Bạch Huệ, người bạn thân nhất của nàng, mới biết tất cả, còn em gái nàng là Hải Ðường chỉ biết một phần thôi. Khi hai người gặp nhau lần đầu, Tần Châu cũng bằng tuổi nàng, là một ông tú tài mười tám tuổi. Chàng có bàn tay trắng mịn như lụa, một nét đặc điểm của đàn ông Giang Tô Chiết Giang, lông mày rậm và miệng lúc nào cũng như mỉm cười. Chàng không những là người xuất chúng, trẻ tuổi, đẹp trai, rất hoạt động, mà còn là một văn nhân, và nàng bao giờ cũng yêu quý văn nhân. Những bài văn hay nhất trong các kỳ thi thường được xuất bản, hoặc truyền tay nhau dưới hình thức chép tay. Những bài văn này được coi là kiểu mẫu cho sĩ tử nghiên cứu học hỏi. Mẫu Ðơn cũng có được một bản qua người cô của chàng, và rất yêu thích bài văn ấy. Tần Châu cũng nghe nói nàng là một thiếu nữ xuất sắc trong dòng họ Lương, có quan hàn lâm rất đáng kính trọng.

Tình yêu bùng nổ ngay từ đầu. Hai người đã trao đổi thư từ và sắp đặt những cuộc gặp gỡ bí mật, đôi khi có Bạch Huệ đi theo. Rồi một hôm nàng nhận được tin kinh hoàng. Tần Châu báo cho Mẫu Ðơn biết cha mẹ chàng đã định vợ cho chàng rồi, và chàng không có cách gì làm khác được. Trong vòng sáu tháng chàng kết hôn với một cô gái Tô Châu. Nàng cũng tới dự đám cưới của chàng; giống như làm nhân chứng cho vụ hành quyết của chính mình, nhưng nàng thích chịu đựng như thế, vì lý do gì thì chính nàng cũng không giải thích được. Nàng phải nhìn thấy hôn lễ ấy. ít nhất điều ấy cũng giải thích một phần tại sao hôn nhân của nàng thất bại ngay từ đầu. Trong thâm tâm, nàng so sánh tất cả mọi thứ giữa Ðình Diêm và Tần Châu. Thỉnh thoảng chồng nàng rất đỗi ngạc nhiên trước những cơn đam mê điên cuồng của nàng; hắn cũng đoán biết hắn không phải là người nàng đang ôm hôn cuồng nhiệt, nhưng là một con người bí mật nào đó mà nàng không bao giờ nói ra.

Hồi ấy, trước khi đường xe lửa Thiên Tân – Phú Khẩu hoàn tất, Cửu Giang là một giang cảng xầm uất. Nó nằm tại nơi sông Dương Tử gặp khúc giữa của Ðại Hà chạy từ bắc xuống nam. Phần lớn thuyền bè dừng lại tại Cửu Giang để nghỉ ngơi hoặc mua vật tiếp liệu, vì đây là chặng cuối cùng của chuyến đi từ miền bắc, và bắt đầu chặng đi xuống miền nam. Nhiều hành khách chuyển thuyền tại đây, lên những con thuyền sang trọng của miền Giang Nam, có phòng ngủ trang hoàng đẹp đẽ và đồ ăn ngon. Nhiều người cũng dừng lại ở đây sau một cuộc hành trình dài, để hưởng cái thú đi tắm tại nhà tắm công cộng, thưởng thức đồ ăn và rượu ngon, và đi giải trí tại các rạp hát nổi tiếng của vùng này.

Mẫu Ðơn không cần phải nêu lý do khi cho thuyền dừng lại tại Cửu Giang. Dĩ nhiên nàng muốn viếng thăm Ðền Kim Sơn, và tìm cái thú tắm thoải mái tại những nhà tắm dành cho phụ nữ. Phải nằm gần cái quan tài trong ba ngày đêm vừa qua, tâm hồn và tinh thần nàng muốn nghẹt thở. Nàng nói với vợ chủ thuyền:

– Chúng ta sẽ dừng lại đây vài ngày. Bà có thể lên bờ làm chuyện gì bà cần. Tôi cũng cần nghỉ ngơi, đi lại cho đỡ cuồng cẳng.

Quay lại tên đầy tớ Liên Xung, nàng căn dặn, “Liên Xung, ở lại thuyền canh giữ quan tài. Trong thuyền lúc nào cũng phải có người. Nếu ngươi cần lên bờ, phải biết chắc có người khác ở lại thuyền.”

– Ðừng lo, chẳng ai ăn cắp quan tài đâu.

Ðứa con gái chủ thuyền cất giọng nói trong trẻo, “Bà lên đi. Lên nhà tắm và để họ bóp chân cho bà sướng đến chín tầng mây.”

Mẫu Ðơn kiểu cách trả lời, “Ta sẽ lên. Ta muốn lắm.” Nàng đã nghe tiếng nghệ thuật bóp chân tại Cửu Giang, và cũng muốn thử cho biết. Hơn nữa nàng cũng muốn tắm rửa cho tươi tỉnh khi gặp lại Tần Châu.

Mẫu Ðơn chưa bao giờ đi du lịch một mình, chưa bao giờ được hưởng sự tự do tuyệt đối mà nàng rất thèm muốn này. Ðứa con gái chủ thuyền đề nghị đi theo nàng làm người hướng dẫn, nhưng nàng từ chối. Nàng không muốn ai bám theo. Cái cơ hội này thật là hiếm hoi, khi nàng có thể tìm lại được con người của nàng, được phục hồi cái cá tính của nàng không bị ảnh hưởng bởi bạn bè và gia đình. Vợ người chủ thuyền e sợ rằng một cô gái trẻ tuổi xinh đẹp như Mẫu Ðơn có thể rơi vào cạm bẫy của đám du thủ du thực trong một thị trấn xa lạ, và bà ta rất lo lắng cho nàng. Nhưng Mẫu Ðơn chỉ lắc đầu cười xòa.

Với bản chất thích phiêu lưu, nàng bước xuống chiếc cầu gỗ và đi lên cái bờ sông ướt át. Nàng thong dong chạy lên những bậc của bờ sông. Chân nàng không bị bó, nhờ cái bản chất nổi loạn của nàng và ảnh hưởng của các nhà truyền giáo tại Thượng Hải trong gia đình. Nàng không mặc váy, mà chỉ mặc một cái quần màu xám đậm. Váy là y phục dùng cho phụ nữ có chồng, như nàng, nhưng đấy là cái luật mà tất cả phụ nữ thuộc giai cấp nghèo coi thường, vì bất tiện cho họ khi phải trèo núi, lội nước hay làm việc ngoài đồng. Nàng quay lại nhìn cái thuyền bên dưới. Liên Xung đang nhìn lên. Nàng không hề muốn tạo ra cái ấn tượng là một goá phụ kiểu mẫu, vì nàng đã quyết định rời bỏ nhà chồng. Nàng không cần biết tên đầy tớ già sẽ nói gì khi hắn về đến nhà.

Ðường phố trải sỏi đầy người đi lại. Rồi Mẫu Ðơn nhập vào một thị trấn tràn ngập những bảng hiệu treo đứng. Nàng hồn nhiên vỗ vai một thanh niên lạ mặt và hỏi nhà tắm ở đâu. Từ những ngày còn nhỏ, nàng biết hành động tự nhiên trong một đám đông, chen lấn vào chỗ đông người nhất, trao đổi chuyện trò với những người rảnh rỗi trong quán rượu và quán trà, gọi một thanh niên là “lão huynh”, hoặc bất cứ cách gọi quen thuộc nào. Ðã hai mươi hai tuổi rồi mà nàng cũng vẫn thế. Một vài lối nói đùa và thói quen cũ vẫn còn. Bao giờ nàng cũng nhập vào một đám đông người lạ với vẻ tự tin.

Người thanh niên quay lại, ngạc nhiên sung sướng thấy một người con gái đẹp nhờ chỉ đường. Lúc đó là chiều tối rồi, và cái vỗ vai của nàng hắt ra cái bóng mờ cuộn trên trán nàng. Mặt nàng trịnh trọng, nhưng đôi mắt thật thân thiện.

– À, ngay tại góc đường kia. Tôi có thể dẫn cô tới đó.

Nàng biết tại sao chàng thanh niên hăng hái muốn chỉ đường. Nàng chỉ nói:

– Xin lão huynh cứ cho biết ở đâu là được rồi.

Người thanh niên chỉ về phía trái và nói, “Cô đi vào trong ngõ kia. Trong đó có hai nhà tắm.”

Nàng cám ơn người lạ. Ði theo hướng chỉ, nàng bước tới một căn nhà trang trí bằng gạch men khảm màu trắng và xanh. Bên trên là một bảng hiệu có hàng chữ mạ vàng: “Nhà Tắm Bạch Mã.”

Cái thành ngữ “xoa bóp sướng tới chín tầng mây” của người con gái chủ thuyền không phải là quá đáng. Sau khi vào một buồng tắm nước nóng sang trọng, có một người đàn bà kỳ cọ lưng, Mẫu Ðơn được dẫn ra một phòng ngoài, được mời uống trà Long Tỉnh và ngồi nghỉ. Nàng lấy khăn phủ lên người; người đàn bà thoạt đầu thoa bóp và vỗ chân nàng. Rồi buộc ngón tay bằng một tấm khăn tắm khô, bà ta bắt đầu thoa bóp và cù từng ngón chân, bằng cách vuốt ve thật nhẹ nhàng cho đến lúc nàng buồn ngủ, được ru bằng một cảm giác thú vị gờn gợn trong xương sống.

Người đàn bà hỏi, “Thưa cô, cô thích không?”

Mẫu Ðơn chỉ rên rỉ. Có lúc những ngón chân nàng co lại vì sự vuốt ve. Nàng không hiểu tại sao bên dưới móng chân lại nhạy cảm vì sự tê mê và đau đớn như thế, nhưng cảm giác ấy đòi hỏi tài nghệ của một chuyên viên, sự vuốt ve tinh tế để hành hạ ngón chân, tạo cảm giác sung sướng cho tới khi gần trở thành đau đớn thì dừng lại.

Nàng cho tiền thưởng rất hậu và nói, “Tôi không bao giờ quên trò chơi này.”

Mẫu Ðơn rất sảng khoái và cảm thấy chân tay nhẹ nhàng mềm mại khi nàng đi ra khỏi nhà tắm để bước vào ánh sáng mặt trời tà bên ngoài. Lỗ chân lông mở ra cho nhiều cảm giác khác nhau, trong lúc nàng say sưa cái đời sống của một thị trấn xa lạ. Nàng tưởng như nàng thuộc về chỗ này, như nàng vẫn cảm thấy thế trong một đám đông, tại đó sự phân cách bắt buộc và giả tạo giữa đàn ông và đàn bà không được biết đến, trừ cái giai cấp đi lại bằng kiệu và sống trong những căn nhà lớn biệt lập sau những bức tường cao. Một người đàn bà lao động không thể có được sự xa xỉ sống ẩn dật. Ðối với đàn ông, Mẫu Ðơn sẵn sàng trao đổi một lời nói thân thiện. Nhưng dù thế nào, nàng quyết tâm dành tất cả cho người mà nàng sắp gặp gỡ. Nàng phải đi mau tới Ðền Kim Sơn để biết tin.

Nếu nàng tới với một trái tim hồi hộp, thì nàng ra về trong một tinh thần rất buồn chán, sau khi đi thơ thẩn cho tới lúc mặt trời lặn. Nàng đã hỏi tại cổng trong và cổng ngoài của ngôi đền xem có thư gửi cho nàng không. Ông già trong bộ áo chùng đơn sơ màu xám, rất là thờ ơ, trả lời một cách lơ đãng và chiếu lệ. Nàng nán lại, nói chuyện với người bán trái cây, rồi đi quanh ngôi đền hy vọng gặp Tần Châu, rồi trở ra cổng ngoài. Ðể trả lời cho câu hỏi lặp đi lặp lại của nàng, ông già canh cổng cáu kỉnh nhìn nàng và nói ngôi đền không phải là nhà bưu điện. Nàng không biết làm thế nào. Nàng đã tưởng Ðền Kim Sơn là một nơi dễ tìm và không thể lầm lẫn với nơi khác.

Có thể thư của nàng chưa tới tay Tần Châu đúng lúc, hoặc chàng đi vắng. Nếu chàng nhận được mà không thể tới, chắc chắn chàng sẽ nhắn tin. Nàng đã quen cái cảm giác hồi hộp chờ đợi từ những lần nàng chờ đợi chàng tại những nơi hò hẹn ở Hàng Châu; nàng đã biết rõ cảnh lén lút, sự bồn chồn, và cảnh giác mọi dấu hiệu của chàng. Nàng đứng tựa vào một cây cột bằng đá cao ngoài sân đền, ngó từng mái nhà, sẵn sàng cho một nụ cười thật tươi nếu nàng chợt bắt gặp hình ảnh Tần Châu. Nàng không còn lòng dạ nào thưởng thức cảnh đẹp của cái tu viện giữa sông, hoặc những đỉnh núi mây phủ ở đằng xa, hoặc là những hòn đảo tắm trong ánh hoàng hôn màu tím xẫm. Những cảnh này mâu thuẫn với sự bồn chồn sôi nổi bên trong nàng.

Sáng hôm sau nàng lại đến thăm ngôi đền, hy vọng hơn nữa được gặp chàng hoặc nhận được tin của chàng. Nàng bảo tên đầy tớ rằng đến tối nàng mới trở về thuyền. Ði tìm Tần Châu là mối quan tâm cấp bách của nàng, bởi vì tương lai nàng đều tùy thuộc vào chàng.

Nàng lang thang một mình quanh ngôi đền, và ngắm du khách và tín đồ đến và đi. Ðền Kim Sơn được xây trên những bậc cao kế tiếp nhau và được chia ra làm nhiều khu hoa viên. Là một ngôi đền được cúng góp nhiều nhất bắt đầu từ ngàn năm trước, ngôi đền rất sang trọng với lối đi lát đá, những cây cối hiếm quý, và những tàng cây u nhã dẫn ra hoa viên ngoài. Thực là cảnh xa hoa sang trọng trong một sự yên bình ẩn dật. Nàng trèo lên cả con Kim Quy, tảng đá cao nhất, và trông thấy Ðộng Bình Minh.

Sau bữa trưa, nàng nghỉ ngơi trong cái phòng khách mênh mông, rồi bước ra ngoài, quyết định không trở lại cho tới lúc hoàng hôn. Tần Châu chưa hề lỗi hẹn với nàng, và nếu chàng lỗi hẹn, thì bao giờ cũng có nguyên cớ chính đáng. Nàng đã không gặp chàng hơn một năm, kể từ ngày theo chồng về Cao Vũ.

Nàng thơ thẩn tại cái bến sông trước ngôi đền, nóng ruột cắn môi. Rồi nàng trông thấy hai người lính cận vệ bước ra từ một góc bên trong. Áo choàng của họ có hai vòng tròn trong đó viết hai chữ “thiên binh”. Họ dẫn đường cho một vị khách quan vào thăm đền. Hiển nhiên vị khách là một bậc đại quan, vì quân phục của lính cận vệ cho biết họ là lính cận vệ tại triều đình Bắc Kinh. Vị khách cao tầm thước và mặc một chiếc áo choàng lụa màu ngà, bước vội vàng, không giống bước đi khệnh khạng của các quan trong triều phục. Tri khách tăng ăn mặc gọn ghẽ đi theo vị khách quan.

Mẫu Ðơn đứng cách xa khoảng mười thước. Nhà sư muốn đưa ông quan vào phòng khách, nhưng ông quan tỏ ý muốn tiếp tục đi nữa. Khi ông quan liếc nhìn quanh, mắt ông ta dừng lại trên cái hình ảnh người con gái một giây. Bàn tay Mẫu Ðơn đưa lên miệng bỗng lạnh cứng lại khi nàng trông thấy mặt vị khách quan. Khuôn mặt ấy gợi cho nàng một người nào đó quen quen, nhưng người ấy là ai? Vị khách quan có lẽ không trông thấy nàng. Ông ta bước lại và đứng một phút nhìn cái ụ đất ở bờ bên kia, bối rối quay đầu và ngắm một chiếc pháo thuyền của người Anh neo giữa dòng sông. Mắt ông ta liếc nhìn hai đầu sông, như thể rất bận tâm đến địa hình của chỗ ấy. Luôn luôn là cái nhìn sắc bén, mau lẹ, cái nhìn của sự quan sát tinh tế chung quanh, giống như cái nhìn của một lính trinh sát quan sát một quang cảnh có địch quân phục kích. Rồi ông ta quay lại, và bước qua cái cổng hình lục lăng, nhà sư và lính cận vệ vội theo sau. Mẫu Ðơn trông thấy hình dáng của vị khách quan biến dần dưới lối đi bằng bậc thang đá, cho tới lúc bị một cành thông che ngang.

Nàng đã trông thấy cái liếc nhìn kỳ lạ, sắc bén và sáng quắc ấy ở đâu? Nàng không thể nhớ ra. Dáng vẻ của vị khách quan gợi nhớ đến khuôn mặt một người thân, một khuôn mặt nàng đã biết từ nhiều năm trước, một khuôn mặt mà nàng không thể xác định được ngay – một trong vô số những kỷ niệm của thời thơ ấu được cất giấu, chôn vùi và bỏ quên. Tuy thế, tại sao nàng cảm thấy một sự khuấy động kỳ lạ bên trong nàng? Những khe rãnh của ký ức chưa chịu nối liền lại. Chỉ còn lại một sự liên kết mơ hồ của một cái gì rất thích thú.

Sự gặp gỡ ngắn ngủi với một ông quan tại Bắc Kinh để lại cho nàng một sự hỗn độn giữa sự tò mò khích động và lòng chán nản.

Mặt trời chiều đã xuống thấp, làm vỡ vụn con sông bên dưới thành những đốm vàng. Tần Châu vẫn chưa xuất hiện. Và cũng chẳng có tin tức tại cổng. Nàng lê đôi chân mỏi xuống lối đi gồ ghề, tâm trí là một khối những khó hiểu của hoài nghi, sợ hãi và buồn bã.

Nàng đi một quãng xa thì chợt một ý tưởng vui thích đến với nàng: vị khách tại Bắc Kinh kia ở Ðền Kim Sơn có thể là ông anh họ của nàng, quan Lương Hàn Lâm. Nàng đoán thế bằng bản năng phụ nữ mà không thể phân tích được.

Nàng thở gấp và quay lại hỏi người gác cổng. Lão già lên tiếng chặn trước khi nàng kịp hỏi.

– Cô trở lại nữa hả! Tôi đã bảo cô. Không có tin gửi cho cô đâu.

Nàng năn nỉ, “Xin cho tôi biết vị khách quan hồi chiều có hai lính cận vệ theo hầu là ai?” Nàng mỉm cười nhìn lão một cách dò xét.

Người gác cổng bỏ tẩu thuốc ra, đưa mắt ngờ vực nhìn người đàn bà trẻ và nói, “Một quan hàn lâm ở Bắc Kinh. Có liên can gì tới cô không?”

– Cho phép tôi nhìn tấm danh thiếp của ông ta được không?

– Không có. Danh thiếp ở phòng khách.

Mẫu Ðơn đứng chết trân tại chỗ. Nàng không hiểu tại sao nàng run như thế. Từ lúc đó, nàng không nhìn thấy người gác cổng, hoặc con đường nàng đang đi. Nàng bàng hoàng như đang bước trên mây, đầu gối nhũn ra. Vị khách ấy không phải là Lương Hàn Lâm như nàng tưởng tượng; giống như gợi lại một hình ảnh trong mơ, phóng rọi thành hình thể vật chất, thay đổi và khác đi. Nhìn thoáng từ đằng xa, người ấy không còn trắng trẻo, mảnh mai và trẻ trung nữa. Ðấy là một con người khoảng bốn mươi tuổi, mặt hơi dám nắng và hơi đẫy đà hơn khi nàng gặp cách đây mười hai năm trước. Chàng tới Cửu Giang làm gì? Nàng rất tiếc bỏ lỡ cơ hội không bước lại nói chuyện với chàng. Dĩ nhiên chàng không thể nhớ ra nàng. Và bây giờ cơ hội đã trôi mất.

*

Ngày hôm sau nàng bảo người chủ thuyền tiếp tục cuộc hành trình. Nàng ngỏ ý muốn được trông thấy Thái Hồ; nhìn cảnh Thái Hồ vẫn là một giấc mơ từ lâu của nàng, cũng như nàng rất ao ước được nhìn nhiều cảnh đẹp mà nàng đã đọc trong sách.

Người chủ thuyền trả lời, “Nếu thế, chúng ta sẽ đi thẳng về phía nam tại Ðàm Dương và băng qua hồ tại Ñch Xương, thay vì đi theo Ðại Hà. Ði đường ấy phải lâu thêm vài ngày nữa, nhưng thoáng rộng hơn. Nhiều người thích đi lối ấy.”

– Vậy thì đi theo lối Ñch Xương. Tôi muốn đi ngang qua Thái Hồ.

Vào ngày thứ ba, ở trong khu vực giữa Lý Giang và Ñch Xương, thuyền đi ngang qua một vùng đồng ruộng xanh tươi đẹp đẽ, phủ đầy lúa non trong những màu xanh đậm và nhạt khác nhau. Những con lạch và cửa sông đổ ra một vùng nước mênh mông đầy thuyền ngư phủ. Buổi sáng rất yên tĩnh, bầu trời đầy những cụm mây trắng. Trừ một vài con diều hâu lượn vòng trên không, chim chóc đã ẩn mình sau buổi bình minh chim hót inh ỏi, như những con chó canh nhà làm một giấc ngủ trưa. Một ngọn gió mạnh thổi từ đông bắc, làm mặt nước gợn lên những đợt sóng lan khắp mặt hồ.

Phía trước họ chừng vài chục thước, hai con thuyền đã căng buồm, và thuyền của Mẫu Ðơn cũng bắt đầu kéo buồm lên. Tiếng nước vỗ hai bên mạn thuyền mạnh hơn và con thuyền lướt trôi. Cánh buồm gia tăng tốc độ và thuyền gần đuổi kịp hai chiếc thuyền phía trước. Hai chiếc thuyền này là những thuyền bồng, loại thuyền sang trọng, chủ đích là tiện nghi thoải mái chứ không cần chạy nhanh; chiếc trước kéo chiếc thứ hai.

Chỉ một lát thuyền của Mẫu Ðơn đã bắt kịp hai chiếc thuyền. Liên Xung đứng dậy, và gia đình chủ thuyền cùng Mẫu Ðơn đang ngắm chiếc thuyền họ đang vượt qua với sự hân hoan khoái trí. Một lá cờ nhỏ có mấy hàng chữ bay phất phơ trên một cây sào trên chiếc thuyền bồng thứ nhất. Bây giờ hai thuyền chỉ cách nhau vài thước. Hai lính cận vệ đang quỳ bên mép thuyền tức giận la hét:

– Các người điên hay sao? Làm gì vậy? Có mắt hay không?

Mẫu Ðơn trố mắt nhìn. Tim nàng muốn nhảy lên khi nàng nhận ra y phục của bọn lính cận vệ. Hàng chữ trên lá cờ đỏ nhỏ quá không đọc được. Nhưng nàng trông thấy hàng chữ “Ðại thần Bắc Kinh”! Nàng thoáng thấy hai chân của người khách bên trong khoang, ngồi trên một cái ghế thấp. Khi khoảng cách của hai thuyền gần hơn, nàng có thể trông thấy cái hình dáng người ngồi trên ghế, khuôn mặt bị cuốn sách ông ta đang đọc che khuất. Nàng không ngạc nhiên nếu người ấy là người anh họ của nàng.

Mẫu Ðơn bỗng giật mình vì tiếng quát tháo. Lính cận vệ trên chiếc thuyền của ông quan đang la hét, bắt thuyền của nàng chậm lại. Người chủ thuyền kinh sợ và ngơ ngác dừng mái chèo. Một chiếc thuyền thứ hai đang phóng nhanh từ sau tới. Một tiếng va chạm dữ dội làm thuyền của nàng lật nhào về một bên với một tiếng vỡ lách cách vang dội. Mẫu Ðơn hầu như té xuống sàn thuyền. Thuyền của nàng bị thuyền kia chủ tâm húc vào.

Nàng nổi giận, vội đứng dậy và yêu cầu thuyền kia giải thích.

– Các ngươi không trông thấy lá cờ ư? Mắt bị hồ gắn chặt lại rồi hả? Tránh ra một bên. Chúng ta muốn đi trước và không muốn ngồi nhìn cái quan tài kia suốt chặng đường.

Mẫu Ðơn quát lại, “Ta chưa bao giờ nghe thấy một chuyện như vậy! Ðây là thủy lộ của Hoàng đế. Ngay Hoàng đế cũng không thể ngăn chặn một người đang chở xác…”

Nàng bỗng dừng lại khi trông thấy chữ “Lương” trên lá cờ. Nàng chưa kịp nghĩ gì thì quan Hàn Lâm đã bước ra ngoài khoang thuyền. Ông ta liếc nhìn người đàn bà đang quát tháo, và hỏi lính cận vệ xem chuyện rắc rối gì xảy ra.

– Kính bẩm đại nhân, đây là thuyền chở quan tài. Chúng con đã trông thấy thuyền này lúc ẩn lúc hiện trước mặt suốt ba ngày qua. Chúng con không muốn đại nhân phải đi theo chiếc thuyền tang này suốt chặng đường, vì thế chúng con yêu cầu họ dừng lại để thuyền của ta đi trước.

– Ta không trông thấy gì. Người ta chở xác thân nhân về quê thì có sao đâu?

– Nhưng bẩm đó là vận sui, và chúng con nghĩ là đại nhân không thích như thế.

Mẫu Ðơn kinh ngạc đưa tay lên che miệng. Nàng không bao giờ nhút nhát trước mặt đàn ông, nhưng bây giờ sự giận dữ của nàng biến thành một sự ngỡ ngàng. Họ Lương trông thấy người đàn bà gần như muốn khóc, tóc buông xõa ngang vai, nhìn ông ta như một con chim thất thần trông thấy con rắn.

Chỉ tay vào bọn lính cận vệ, nàng nói, “Họ chủ tâm đâm vào thuyền của chúng tôi.” Mắt nàng vẫn còn ngơ ngác vì sự khích động bất ngờ.

Ông quan trao đổi vài lời với bọn lính cận vệ, nhưng nàng không nghe rõ. Rồi nàng ngạc nhiên vì sự liều lĩnh của nàng khi nàng bất thần thốt lên:

– Có phải ngài là quan Lương Hàn Lâm ở Ngọc Ðào không ạ?

– Phải, chính tôi đây. Cô là ai?

Nàng vội nín hơi, và giọng của nàng che giấu một niềm vui bất ngờ. “Tôi là một người họ Lương tại Ngọc Ðào, một người em họ của ngài. Hồi tôi còn nhỏ, ngài gọi tôi là Tam Muội. Có lẽ ngài không nhớ được tôi đâu.”

Khuôn mặt của Lương Mạnh Giao dịu hẳn lại. Mắt ông sáng rỡ và khuôn mặt dám nắng của ông chuyển thành một nụ cười khi ông nói, “Thế ra là Tam Muội! Dĩ nhiên tôi nhớ rõ lắm. Cô là một cô bé xuất sắc tôi đã gặp lần trước.”

“Ngài nhớ tôi?” Mẫu Ðơn rất ngỡ ngàng, và nàng ngạc nhiên khi thấy ông quan xua tay bọn lính cận vệ, và nói với nàng bằng một dáng điệu mời mọc, “Sang đây.” Chiếc thuyền được đẩy về phía trước, và lính cận vệ giúp nàng trèo lên chiếc thuyền quan.

Thật là không ngờ chàng nhớ được nàng, và còn mời nàng sang thuyền. Trong lòng nàng vẫn còn run rẩy khi trông thấy chàng bước vào giữa thuyền trong đôi vớ trắng và mời nàng ngồi xuống. Thực ra Lương Mạnh Giao rất là vui sướng gặp được một người em họ để cho chuyến đi xa bớt buồn tẻ. Một người đàn bà đầy tớ, tuổi trên năm mươi đứng bên cạnh. Mạnh Giao lên tiếng trước:

– Tôi nghĩ là cô đi về phương nam. Cô đi đâu vậy?

– Về Cao Xương. Em chở xác chồng về quê nhà.

Ông quan nhìn nàng một cách soi bói, và ra lệnh cho lính cận vệ, “Hãy kéo chiếc thuyền đi theo.”

Lính cận vệ rất đỗi ngạc nhiên và hoảng sợ, vội vàng móc kéo chiếc thuyền của Mẫu Ðơn. Một tên khẽ nói, “Bây giờ chúng ta chắc chắn là có cái món hàng quý giá ấy luôn luôn theo sau.” Ngay sau đó thừng được ném qua, và ba chiếc thuyền lên đường theo một hàng chữ nhất.

Tên đội trưởng mang trà tới và xin lỗi, “Chúng tôi không biết bà có quan hệ với đại nhân.” Một lần nữa hắn giải thích với chủ rằng hắn chỉ muốn chiếc thuyền chở quan tài chậm lại và đi sau thôi.

Mạnh Giao ngẩng nhìn viên đội trưởng và mỉm cười. Ông ta dường như thích nói đùa khi ông ta bảo hắn:

– Bây giờ thì ước vọng của ngươi thành rồi. Chiếc thuyền sẽ đi sau chúng ta… Và ta thích như thế.

Ông ta nói dễ dàng, mỉm cười và quay sang Mẫu Ðơn, “Những người này khi họ đi trên thuyền của nhà nước, họ tưởng họ đại diện cho Hoàng đế. Không biết tôi đã nhắc nhở họ bao nhiêu lần không được ra vẻ hống hách.” Ông ta ngừng lại, im lặng nhìn Mẫu Ðơn, và nói khẽ bằng giọng trầm ấm, “Tôi hy vọng họ không làm Tam muội hoảng sợ.”

Mắt nàng sáng rỡ với một vẻ khôi hài trẻ trung và tinh nghịch. “Sợ chứ, thuyền của em suýt nữa bị lật. Bị đâm vào ngay từ phía sau.”

– Tôi rất tiếc và xin lỗi cho chúng. Tôi chắc Tam muội chưa dùng điểm tâm. Nào, xin mời dùng với tôi.

Ðinh má, người đầy tớ, chạy ra đuôi thuyền truyền lệnh. Ðịa vị bà ta cao hơn một người đầy tớ; bà ta đã là nhũ mẫu của Mạnh Giao từ hồi còn bé, và trở thành người quản gia cho chàng từ nhiều năm, trông coi quan hàn lâm như một người mẹ trong những năm ở Bắc Kinh.

Trái tim Mẫu Ðơn vẫn còn đập mạnh vì xúc động. “Em trông thấy huynh trưởng tại Ðền Kim Sơn, nhưng huynh trưởng không nhìn thấy em.” Nàng nói như thể hai người là bạn với nhau nhiều năm rồi. Ðó là lối cư xử của nàng, thành thực và thân mật khi gặp đàn ông. “Huynh trưởng thực sự nhớ được em ư?”

Mạnh Giao bị kích thích bởi cái giọng nói êm dịu nhưng rất trẻ trung của nàng, và cũng bởi cái thái độ thân mật nữa. “Phải, tôi nhớ mà.”

“Em trông thấy huynh trưởng nhưng huynh trưởng không nhìn thấy em.” Lời nói có vẻ tự tin nếu nàng không nói bằng một sự ngay thẳng trẻ con và thân mật. Chàng đã gặp nhiều mệnh phụ xinh đẹp tại Bắc Kinh, nhưng chưa lần nào cảm thấy một sự hào hứng tươi mát, đầm ấm và tự nhiên như vài lời trong phong cách nói của nàng. Chàng nhớ lại người con gái này có đôi mắt tinh anh đặc biệt. Những lời nói mau lẹ và rõ ràng của nàng tuôn ra như một lời thú nhận:

– Em mười một tuổi và huynh trưởng trở về là một quan hàn lâm tại Bắc Kinh; cả họ chúng ta ăn mừng và đặt bài vị trong nhà từ đường. Huynh trưởng có nhớ Tô thúc thúc không?

– Có chứ, tôi nhớ.

– Hừ, chính Tô thúc thúc giới thiệu em cho huynh trưởng, và huynh trưởng nhìn em. Ôi, sao em yêu kính huynh trưởng đến thế! Huynh trưởng đặt tay lên trán em và gọi em là “xuất sắc”. Ðó là giây phút vĩ đại nhất trong đời em. Kể từ đó mọi người gọi em là Tam muội, vì huynh trưởng đã gọi em như thế. Em lớn lên nhớ mãi bàn tay mềm mại của huynh trưởng trên trán em. Huynh trưởng không biết huynh trưởng đã làm gì cho em đâu. Sau đó, khi em biết đọc, em đọc tất cả mọi sách của huynh trưởng, dù em hiểu được hay không.

Mạnh Giao cảm thấy vừa hãnh diện vừa hài lòng. Chàng dường như gặp được một tâm hồn giống chàng. Nàng không có một dè dặt, một kiềm chế nào. Chàng hỏi:

– Hãy cho tôi biết chúng ta có họ với nhau như thế nào.

– Hừ, Tô thúc thúc họ Tô. Ông ấy là anh của mẹ em. Gia đình em sống tại Vĩnh Kỳ Môn.

– À phải rồi. Ông ấy lấy em của mẹ tôi.

Trong khi nói chuyện, Mẫu Ðơn biết Lương Mạnh Giao được quan Ðại học sĩ Trương Chi Ðông phái xuống Phúc Châu để báo cáo về trường hải quân và quân cảng. Trương Chi Ðông, một trong những lão đại thần, đang chủ trương học hỏi theo tây phương, đặc biệt là mở các đường hoả xa, hầm mỏ, xưởng đúc thép Hàn Diệp Bình tại Hán Khẩu, và quân cảng và trường hải quân Phúc Châu. Mạnh Giao phải đi Hàng Châu trước, và sẽ trở về Bắc Kinh trước mùa đông. Nàng trông thấy mái tóc bạc gần thái dương của chàng và hỏi, “Huynh trưởng bao nhiêu tuổi rồi?”

– Ba mươi tám. Còn Tam muội bao nhiêu?

– Hai mươi hai.

– Tôi không còn biết trong họ ai già ai trẻ bao nhiêu nữa. Tôi đi xa lâu quá rồi.

– Em sẽ hãnh diện biết bao khi bảo cho họ hàng biết em đã gặp quan hàn lâm trong một chuyến đi xa, và được ngồi chung thuyền với quan hàn lâm.

Chàng nói bằng một giọng trầm trong cổ, và bình tĩnh, nhưng mắt rất sắc xảo với một sức mạnh nội tâm, như thể chàng hiểu mọi chuyện trước mắt. Chàng là một người đã đi nhiều và trông thấy nhiều, nhưng trong lòng lúc nào cũng ung dung. Ngay lúc trước đó trong khi lính cận vệ la hét quát tháo, chàng chỉ nhìn xem một cách thú vị. Nàng biết từ những bài viết của chàng rằng chàng nhìn đời bằng một quan điểm đặc biệt, bằng một sự hài hước yên lặng, nửa khôi hài nhưng không bao giờ hoài nghi. Sách vở của chàng cho nàng biết những ý tưởng và thành kiến ưa thích của chàng, như một người biết rõ một người bạn thân. Nàng cảm thấy nàng hiểu chàng, như thể nàng từng biết chàng từ nhiều năm.

Bây giờ nàng cảm thấy hoàn toàn thoải mái. Nàng lười biếng lê chân tới mạn thuyền và đọc những chữ trên lá cờ đỏ hình vuông. Hàng chữ viết: “Quan Tứ Phẩm, Cố Vấn Ðặc biệt cho quan Ðại học sĩ Trương. Ủy viên đặc biệt tới viện Hải quân Phúc châu, Lương Hàn Lâm quê Ngọc Ðào.” Nàng trở lại khen ngợi chàng.

– Chỉ là quan tứ phẩm thôi. Ðừng hoảng sợ những thứ vô nghĩa lý ấy.

– Tại sao huynh trưởng nói vậy?

– Bởi vì tôi chẳng biết gì về hải quân hoặc pháo thuyền cả. Thực ra tôi chỉ là một người biết sửa đồng hồ – học từ những người bạn Dòng Tên của tôi. Quan Thừa tướng, tức là quan Ðại học sĩ Trương Chi Ðông phái tôi đi chỉ vì ông ta muốn tôi biết chắc rằng Viện Hải Quân được điều hành trơn tru, như một chiếc đồng hồ. Dĩ nhiên, tôi đã đọc tất cả những sách vở của Dòng Tên và hiểu một vài điều về máy hơi nước… Tôi thật sự có thể tháo rời mọi bộ phận của chiếc đồng hồ và sửa chữa được. Tôi đã có tiếng là người biết sửa đồng hồ tại Bắc Kinh.

– Huynh trưởng thật là tuyệt giỏi.

– Chẳng tuyệt giỏi gì đâu. Chỉ cố tìm hiểu. Có rất nhiều thứ chế tạo tại Tây phương mà chúng ta chưa tìm hiểu.

Mạnh Giao nhìn Mẫu Ðơn trong dáng vẻ đặc biệt của nàng, một thái độ uể oải và mơ mộng – sự mơ mộng trong mắt và trong dáng nàng. Nàng thường hất đầu về phía sau một chút, dù đứng hay ngồi, khi nàng ở một mình, trong một thái độ suy tưởng và thoải mái, mắt mơ màng, sung sướng và thoải mái, uống tận cùng cái tinh chất của mọi thứ quanh nàng. Chàng đã trông thấy nàng nhiều lần như thế, trong lúc nàng ngồi một cách bấp bênh ở đầu thuyền, ngẩng mặt lên, như thể suy nghĩ mà thực như không suy nghĩ, đón nhận mùi hương của gió, âm thanh của chim chóc, cảm giác của mặt trời ấm áp trên mặt nàng, thở bằng một sự tồn tại. Dù nàng đứng thẳng, dáng điệu nàng gợi đến bước chân lười biếng và tâm trí thoải mái của nàng, cổ nàng cúi nghiêng về phía trước, hai cánh tay buông thõng hai bên người, những ngón tay cong lên như đầu những ngọn cây dâu.

Khi bữa ăn trưa dọn ra bàn, Mạnh Giao nghe thấy một tiếng kêu thích thú cố đè nén. Chàng nhìn lên từ trang sách và trông thấy hình dáng mảnh mai của nàng, mặc áo chẽn và váy trắng, cánh tay trắng nõn chỉ vào một cái gì trước mặt với một vẻ vui thích trẻ con. Chàng hỏi:

– Cái gì thế?

– Chim cốc.

Giọng nói trong trẻo kéo dài ra một cách dịu dàng bằng một âm thanh thích trí và hài lòng. Nàng quay nghiêng thành một hình nổi bật trên làn nước xanh, cánh tay vẫn vươn ra, mái tóc đung đưa trên trán, một sự sống động trẻ con và hấp dẫn. Chàng bước lại gần, không quan tâm tới những con chim, mà vì cảm động bởi sự tươi mát của niềm thích thú trẻ trung mà khung cảnh đã tạo ra trong lòng nàng.

Nàng đứng đó, mắt chăm chú nhìn cảnh trước mặt. Hai ngư phủ đứng trên hai chiếc thuyền đáy bằng, dùng sào dài đập nước và kêu mấy tiếng “Hồ! Hồ!” Hai chiếc thuyền đến từ hai góc khác nhau và xua cá vào giữa. Những con chim cốc màu đen lao xuống nước rồi mỗi con bay lên miệng ngậm một con cá, nộp cho ngư phủ. Sau khi nhả cá ra, chim cốc nghỉ trên thuyền, lắc lư mỏ một cách kiêu hãnh thoả mãn, rồi lại nhào xuống nước để trổ tài bắt cá. Chim cốc nuốt những con cá nhỏ, nhưng một cái vòng bằng tre ở cổ chúng bắt chúng phải nộp cho chủ những con cá lớn.

Một mùi gay gắt từ những con chim phảng phất lên khi thuyền lại gần chúng. Các ngư phủ vẫn tiếp tục kêu “Hồ! Hồ!” để đuổi cá, đập nước xa thuyền hơn nữa trong khi những con chim kêu ồm ộp. Khi trông thấy một con chim bay lên ngậm một con cá lớn, Mẫu Ðơn nắm lấy cánh tay Mạnh Giao và hổn hển nói, “Coi kìa!” Nàng cứ để tay trên cánh tay chàng, như thể nàng là em gái ruột của chàng vậy. Thực là bất nhã, nhưng về phần nàng thì hoàn toàn tự nhiên và ngây thơ.

Nhưng cái cử chỉ nhỏ bé ấy đã gây cho Mạnh Giao một xúc động mới mẻ, vì sự gần gũi ấm áp với một người đàn bà còn trẻ. Chàng dường như hiểu ngay cái bản chất đặc biệt của nàng, tin tưởng, thân mật và đầm ấm. Mắt nàng quay lại nhìn xem chàng có vui thích như nàng không.

Lương Mạnh Giao cảm thấy rằng người em họ mà chàng khen ngợi khi còn bé nay đã trưởng thành là một thiếu phụ, thành thực một cách tuyệt diệu, bừa bộn và bất bình thường một cách rất hấp dẫn. Chàng cảm thấy cõi riêng tư của tâm hồn chàng đã bị phá vỡ. Là một người độc thân gần bốn mươi tuổi, cuộc đời chàng đã theo một cái nếp bình thường, tập trung một cách ích kỷ vào sách vở, sự học hỏi và du lịch, thoả thích theo ý riêng. Cơn xúc động từ Mẫu Ðơn gây ra khi nàng nắm chặt cánh tay chàng, và nhìn thẳng vào mắt chàng như một người đã phá vỡ và đảo lộn cuộc đời cô đơn của chàng, một sức mạnh bí mật vĩ đại xâm nhập vào con người chàng và thô bạo đạp đổ tất cả. Một người tươi mát, hồn nhiên vui vẻ và lạ lùng, đã xâm nhập cõi riêng tư của chàng, lấy đi của chàng sự bình tĩnh vốn có. Sự việc ấy xảy ra bất thình lình và bằng một cách không giải thích được.

Chàng đã thành công dễ dàng; chàng đã không tìm danh tiếng, nhưng danh tiếng tìm đến chàng. Nhưng có lẽ lần này sự đam mê ấy đã bắt đầu nhàm chán. Trừ một vài người bạn thân và công việc, không gì có thể kích thích chàng nhiều. Ngoài những thứ này, chàng không màng chức tước và địa vị. Ngay cả khi chàng được phong chức hàn lâm, chàng chỉ coi đó là một chức tước, do bên ngoài gán cho chàng; chàng biết rằng một văn nhân phải đứng vững hay đổ ngã với tác phẩm, dù có bằng cấp hay không cũng thế, và tình yêu thực của chàng là sự nghiên cứu sách vở. Và bây giờ bỗng nhiên chàng cảm thấy chàng đã bỏ phí cuộc đời. Cuộc đời sẽ chẳng còn ý nghĩa nữa, trừ phi chàng gặp một con người: sự hiện diện và giọng nói của Mẫu Ðơn. Chàng cảm thấy bực bội nhưng cũng rất thích cái ý nghĩ ấy.

Thuyền dừng lại tại Ich Xương vào lúc mặt trời lặn. Với một nỗi xao xuyến mới lạ trong lòng, Mạnh Giao nói:

– Tối nay hãy ăn mừng.

– Ăn mừng cái gì và ăn mừng thế nào?

Nàng hỏi với đôi mắt mở to dò hỏi.

– Chúng mình lên bờ và ăn tối tại một tửu lầu.

Hai người bước lên cái lối đi lầy lội. Cái bờ nước nơi thuyền bè đậu thì thường là ướt và rất trơn. Mạnh Giao đã cho lính cận vệ nghỉ, bởi vì chàng rất ghét có người đi kèm, và chỉ thích một mình lang thang trong những thị trấn lạ. Hai người bước đi trên những phố xá trải sỏi, và dừng lại rất lâu trong một cửa tiệm, chọn mua một bộ đồ trà bằng đất. Ñch Xương nổi tiếng làm được những bộ đồ trà màu dà dễ thương, bên ngoài bằng đất sét mờ, bên trong là men màu lục sáng bóng.

Tại một tiệm ăn nhỏ, họ gọi món tôm chiên, những con tôm nhỏ nhưng rất ngon của vùng này, và bánh vừng vừa nướng ra khỏi lò, sau đó là một con cá chép ướp tương cay, với sữa đậu nành, nấm và tỏi; Mạnh Giao sai đổ thêm vào một bình rượu Ngũ gia bì cho dậy mùi thơm.

Chỉ có hai người ngồi với nhau. Hai ngọn đèn dầu hắt lên những cái bóng lung linh, và một thứ ánh sáng dịu thắp sáng khuôn mặt họ. Trên một chiếc bàn bên cạnh là một cây nến đỏ cao vài chục phân, cắm vào một cái giá cũng cao như vậy, làm theo hình chữ “thọ”. Ánh sáng lờ mờ chiếu vào cái sống mũi rất thẳng trên mặt Mẫu Ðơn và đôi mắt màu nâu nhạt rung động của nàng, trong lúc nàng nhìn chàng đăm đăm trong một vẻ rất quyến rũ. Nàng cảm thấy bị du vào một giấc mộng, bỗng được ở một mình với người anh họ mà nàng hằng yêu kính, một cơ hội nàng tưởng không bao giờ có được. Mắt nàng mơ màng trong một cái nhìn như sương mờ khi cuộc đời trở nên nguy hiểm, như một cơn nửa buồn ngủ nửa mơ mộng.

Chàng hỏi, “Muội nghĩ gì vậy?”

Nàng liếc nhìn chàng bằng một cái nhìn rung động, và nói, “Em chỉ ngỡ ngàng. Như một cơn mộng. Em chưa bao giờ nghĩ em sẽ được đồng ẩm với huynh, mặt đối mặt, như tối nay. Ôi, thật là thần tiên!”

Trong bữa ăn, hai người nói đủ thứ chuyện, về công việc và tác phẩm của chàng, và về nàng. Mạnh Giao là người nói chuyện hấp dẫn, và có cả một kho chuyện mà chàng thu thập được trong các chuyến du lịch.

Chàng là người tầm thước, da ngăm đen, nét đặc biệt ở chàng là đầu tóc bù xù, bắt đầu bạc ở thái dương, và cặp lông mày đen đậm. Mái tóc hói của chàng bộc lộ một cái trán cao, bên trên đôi mắt mạnh mẽ lấp lánh – đặc biệt là khi chàng hơi say rượu. Da quanh mắt chàng mịn và bóng bẩy, nhưng thái dương chàng là những đường gân chằng chịt.

Mẫu Ðơn đã đọc nhiều bài của chàng viết về Vạn Lý Trường Thành và Nội Mông. Chàng được công nhận là người có thẩm quyền về bức Trường Thành phân cách Trung Hoa với phương bắc, và chàng có thể nói tiếng Mãn Châu và tiếng Mông Cổ; nhờ đó chàng trở nên rất cần thiết trong triều khi quan thừa tướng cần hiểu tin tức về các vùng miền bắc.

Chàng đã làm một chuyến du lịch một mình bao gồm các điểm chưa rõ ràng và còn gây tranh cãi về Vạn Lý Trường Thành. Chàng đã đi từ Sơn Hải Quan ở phía biển Trung Hoa cho tới Nội Mông ở vùng cực tây bắc. Những bài viết của chàng bắt gợi được cái hương vị lịch sử cổ xưa giấu kín dưới rêu phong của Vạn Lý Trường Thành. Chỉ cần nhắc lại những cái tên lịch sử và kiến thức quen thuộc về những trận đánh và biến cố, đã làm cho những bài viết này khó hiểu, trí thức và rất đáng thán phục, cho cả những người biết lịch sử và những người không biết. Mạnh Giao rất thích thú khi biết rằng nhiều người không hiểu chàng nói gì. Ðó là nét đặc biệt của chàng. Tư tưởng chàng là của riêng chàng. Cái cảm giác cô đơn, phá vở biên giới tư tưởng, đi thẳng vào sự vật, nắm hiểu những vấn đề của triết học và đời sống, biến chàng thành một nhà văn đuy nhất độc đáo của thế hệ chàng; chàng bị phe tân nho sĩ buộc tội là xuất sắc, nhưng lệch lạc hoặc bí ẩn, đã cố tình khác người. Chàng thản nhiên trước những quan niệm như vậy và tiếp tục yêu thích sự cô lập của chàng.

– Có phải huynh đã đi tới tận Ninh Hạ tại biên giới sa mạc Gobi không?

– Phải. Có quá nhiều tài liệu trái ngược nhau về Vạn Lý Trường Thành. Trường Thành khi thì rộng gấp đôi và gấp đôi nữa, hoặc bất thần cắt đứt trên bờ sông Hoàng Hà, cũng như tại Ninh Hạ. Có lần tôi đã phải uống sữa của một con lừa cái từ bầu sữa của nó.

Nàng bật cười thích thú và hỏi, “Làm thế nào mà bú được?”

Giọng của chàng bỗng hứng khởi, “Tôi bị lạc đường khi một mình đi một khúc quanh trở lại. Ðó là một kinh nghiệm phi thường khi thấy mình hoàn toàn cô đơn trong vũ trụ này, trước mặt và sau lưng chẳng có gì, trừ bãi sa mạc mênh mông vắng lặng. Trong suốt năm ngày tôi bị lạc trong một rặng núi sa mạc – không có gì cả, trừ đá và cát. Bánh mì tôi mang theo đã hết rồi và trước mặt không gì có thể ăn được. Không có làng xóm, không khách thương, tất cả đều không. Tôi đói lắm. Tôi tính sẽ phải đi một ngày một đêm nữa thì mới trở về tới thị trấn. Tại chân Vạn Lý Trường Thành tôi trông thấy một con lừa cái buộc vào một tảng đá. Con lừa chắc là của một tên buôn lậu nào đó. Nhưng làm sao tôi có thể ăn sống một con lừa được. Tôi liền lặng lẽ trèo lên Trường Thành và đập đầu con lừa bằng một tảng đá. Con lừa lảo đảo và quỵ xuống. Rồi tôi bò xuống đất và bú sữa từ bầu sữa của nó. Thế là tôi sống thoát. Tôi lưu lại chỗ ấy. Khi có lừa thì nhất định phải có người chủ. Tôi định nếu gặp chủ con lừa, tôi sẽ đền tiền cho ông ta. Rồi tôi chợt nghĩ đến sự nguy hiểm và bỏ đi thật nhanh.”

Câu chuyện gợi cho nàng một cảm giác lạ lùng. Nàng nói, “Huynh thật là độc đáo.”

– Không phải. Tôi chỉ muốn biết rõ cái mà tôi sẽ viết. Nhiều sách vở, đặc biệt là sách địa lý của quá khứ nói về sông núi, chỉ là một bản sao chép lại của sách khác. Tôi phải trông thấy cái nơi tôi muốn viết, và nghiên cứu sâu xa về đề tài. Tôi bao giờ cũng muốn làm cái gì tôi thích làm, đặc biệt là khi chưa có ai làm trước.

– Huynh đã làm như thế đấy. Phần đông người khác không làm những gì họ muốn làm, hoặc không thể. Hoặc không biết họ muốn gì ở đời này.

– Nếu người ta thực sự ước muốn thì có thể làm được.

– Em cũng nghĩ vậy. Nếu người ta tha thiết ước muốn một cái gì, người ta sẽ làm cái đó, miễn là sẵn sàng trả giá.

Chàng nhìn nàng đăm đăm và nói, “Hãy cho tôi biết về muội. Muội sẽ làm gì?”

Nàng biết chàng chống lại việc bắt goá phụ phải ở giá, và nói dễ dàng bằng một sự thành thực dịu dàng, “Em muốn rời bỏ nhà chồng và tái giá. Em biết em là một người vợ xấu của anh ta. Có lẽ anh ta thù ghét em lắm. Chúng em không hiểu nhau, thế thôi. Em không khóc khi anh ta chết. Em không thể khóc và sẽ không khóc. Ngay ở nhà em, em cũng là một đứa con gái tệ. Từ lúc còn bé, em bao giờ cũng làm theo ý mình. Em không giống em gái của em.”

– Muội có em gái?

– Phải, kém em ba tuổi. Tên nó là Hải Ðường. Nó thật dễ thương, lặng lẽ và vâng phục, trong khi em là người nổi loạn trong gia đình. Em đi ra ngoài chơi đùa với con trai khi em mười lăm tuổi, trong khi em gái em không nói chuyện với con trai xa lạ ở tuổi ấy. Chúng em sinh ra rất khác nhau. Mọi người yêu quí em gái em, và nghĩ em là người điên rồ. Em sinh ra như thế rồi. Em là một đứa con gái bình thường, xấu xí trong mọi khía cạnh của người đời.

– Tôi không tin như thế.

– Ðúng thế, em là một đứa con gái tầm thường – cho đến khi huynh đến và gọi em là xuất sắc. Huynh đã thay đổi hẳn cuộc đời em.

– Chừng nào muội rời bỏ gia đình chồng?

– Ngay khi một trăm ngày tang chấm dứt. Em không muốn vùi đời trong một thị trấn nhỏ. Em có bổn phận phải để tang anh ta, nhưng trong lòng, em chẳng buồn tiếc gì.

– Tôi cũng thấy như thế.

Mạnh Giao dừng lại suy nghĩ. Chàng sợ rằng Mẫu Ðơn có lẽ lấy những tư tưởng của chàng trong sách và áp dụng y như thế vào đời.

– Dĩ nhiên không ai cưỡng ép được muội. Nhưng như thế thì đau lòng cho gia đình nhà chồng – đau đớn và xấu hổ cho họ.

– Sao thế, huynh không đồng ý à?

– Tôi đồng ý chứ. Tôi chỉ nghĩ họ sẽ không thích thế. Và dĩ nhiên còn rất nhiều chuyện ngồi lê đôi mách của đàn bà nữa.

Nàng trả lời ngay, “Phải, đàn bà ngồi lê đôi mách, đàn ông vênh váo. Ðấy là những gì người ta thường làm ở đời này.” Trong lúc nàng nói, Mạnh Giao cảm thấy nàng quả thực là một người nổi loạn.

– Có người phải thử chống lại sự buộc tội gay gắt của xã hội, huynh nghĩ thế không? Huynh đã nói, nếu một người ao ước một cái gì thì người ấy có thể có được. Cái gánh nặng của Khổng Giáo thực quá đáng cho đàn bà chúng em. Ðàn ông các anh ngồi trên cao, còn đàn bà chúng em ở bên dưới.

Mắt Mạnh Giao thoáng một vẻ ngạc nhiên. Chàng ao ước chàng có đủ can đảm viết ra một câu như thế.

– Muội nói gì thế? Nói lại xem nào.

– Em muốn nói sự thực là Khổng Giáo quá đáng cho đàn bà chúng em. Chúng em không mang nổi đâu. Các học giả đàn ông thì rất đúng khi nói rằng văn dĩ tải đạo. Nhưng sự thực là quá nặng, đàn bà không tải được.

Mạnh Giao cười rộ lên. Chàng chưa bao giờ nghe hai chữ “tải đạo” được dùng theo nghĩa vật chất, như “vác” hoặc “khiêng” hàng hoá. Chàng nói với một cái nhìn tán đồng.

– Này, nếu tôi là quan Giám Khảo và đàn bà được đi thi, thì tôi sẽ cho muội đậu thật cao.

Với một sự hứng khởi bất thần, nàng nói, “Huynh không nghĩ như thế là đúng hay sao? Em nghe nói huynh ly dị vợ mấy năm rồi. Ðinh má cho em biết bà ta là người duy nhất chăm sóc cho huynh những năm vừa qua. Có đúng thế không?”

Mạnh Giao nhìn thật lâu vào mắt nàng và nói, “Chuyện đó đã lâu rồi. Tôi kết hôn lúc hai mươi tuổi, lấy một người con gái không có trí óc, một kẻ hợm hĩnh không chịu đựng được, con của một gia đình giầu có nhất tại Ngọc Ðào. Lúc đó tôi là một cử nhân. Tôi nghĩ tôi đã hoàn thành tâm nguyện cho cô ta và gia đình cô ta – cũng giống như vàng ngọc của cô ta và ruộng đất của ông bố. Một kẻ hợm mình mà chẳng có gì đáng hợm mình. Ðây là một cuộc hôn nhân để lợi dụng. Tôi không thấy tại sao tôi có thể là sự “lợi dụng” cho một số phụ nữ, để họ có thể trình diễn khoe khoang là bà cử nhân. Tôi không bao giờ gặp cô ta và gia đình cô ta nữa.”

– Và huynh cũng vẫn chưa tái giá?

– Chưa.

– Tại sao?

– Tôi không biết. Có lẽ tôi là một nhà văn và một nhà văn bao giờ cũng là người ích kỷ. Nhà văn trân trọng cái cá tính của mình quá đáng đến nỗi không chia sẻ với ai được. Nhưng có lẽ là vì tôi chưa gặp người con gái đúng ý.

Cái trí óc thực tế của nàng hiện ra. “Em hỏi huynh một câu được không?”

– Tôi đang nghe đây.

– Huynh giúp em được không? Khi nào huynh trở về Hàng Châu?

– Tại sao muội hỏi?

– Bởi vì sau một trăm ngày tang, em sẽ trở về nhà thăm mẹ em. Hãy cho em gặp huynh. Huynh có thể chỉ dẫn khuyên em nên thế nào.

Mạnh Giao co ngón tay lại tính toán. Chàng sẽ có mặt tại Hàng Châu một tuần nữa. Rồi chuyến đi Phúc Châu và trở về mất vài tháng. Chàng nghĩ có thể đầu mùa thu, khoảng tháng Chín. Là một nhà học giả bị trưng dụng cho việc nghiên cứu hải quân, nhưng chàng rất thù ghét biển cả; chàng không muốn đi Phúc Châu bằng thuyền dọc theo bờ biển. Chàng nói:

– Tôi ghét những trận bão. Tôi trải qua một trận bão khủng khiếp ở biển Quảng Ðông.

Khi hai người rời khỏi nhà hàng, Mạnh Giao cảm thấy nàng là một người đàn bà có tinh thần và cách suy nghĩ rất giống chàng. Hai người bước đi trong những lối đi tối tăm trải sỏi để trở về thuyền, tay nàng khoác lên tay chàng. Nhiều lối đi lầy lội thoải xuống bờ nước. Mẫu Ðơn nhất định đòi mang cái hộp bộ đồ trà. Khi họ bước tới những lối đi trơn bùn, nàng một tay cầm cái hộp, một tay nắm chặt cánh tay chàng. Ðây là giây phút chàng tìm lại được tuổi trẻ. Ðã lâu lắm rồi chàng không hề cảm thấy cảm giác vừa lâng lâng vừa đê mê như thế. Nhưng trong bóng tối việc gì cũng được. Chàng cảm thấy chàng đang đi với một linh hồn xa lạ nhưng quyến rũ, bất thần từ một nơi nào xuống, mạnh mẽ lấy đi của chàng cái tâm trạng cô đơn huy hoàng mà chàng đã sống trong nhiều năm qua. Tình yêu là một sự cướp đoạt, như một người lạ xâm nhập vào bên trong chàng, chiếm giữ cái nơi ở của chính chàng, và tự nhận làm chủ của lòng chàng.

Ðêm ấy, khi nằm trên thuyền, chàng cảm thấy một cái gì vĩ đại và quan trọng đã xảy ra cho chàng. Chàng không thể không nghĩ đến nàng. Chàng cảm thấy tất cả những gì về nàng thật là đúng ý; từ đôi mắt đến giọng nói, niềm hân hoan nồng nhiệt và nụ cười uể oải của nàng, sự hiểu biết và tinh thần nàng làm chàng mê say. Không một người đàn bà nào đã làm chàng xúc động đến vô cùng như thế. Chàng ngạc nhiên cho chính mình. Trong suốt cuộc đời, chàng chưa bao giờ cảm thấy lòng chàng hội nhập với một người đàn bà, một người đàn bà sung sướng đáp ứng lý tưởng của chàng đến thế.

Chàng đã trải qua một cuộc tình với một công chúa Mãn Châu, vợ của một thân vương, một cuộc tình đau đớn mà chàng đã biết rứt bỏ kịp thời. Bây giờ Mẫu Ðơn dường như đang lảng vảng trong tâm trí chàng, một người rất đẹp, cám dỗ, tự do, thông minh, có cái vẻ nổi loạn, tinh thần độc lập, mơ mộng, vui tươi, và táo bạo lạ thường. Chàng thích nàng và cảm thấy chàng cần nàng mãi mãi – chàng đã có đủ lý do chưa? Cái mà chàng chưa chịu công nhận là đã bị nàng xáo trộn đến tận cỗi rễ, trong khi chàng tưởng không còn bị đàn bà quyến rũ được nữa. Giống như nghe một biến tấu của một giàn nhạc giao hưởng, khi nốt nhạc trầm nhất bỗng nổi bật lên giận dữ – appassionata. Chàng kinh ngạc khi thấy chỉ một giọng nói, một nụ cười của một người đàn bà có thể xô đổ tất cả những năng lực quan trọng nhất của một người đàn ông thành một sự hỗn độn. Tình yêu chính là một sự rối loạn lớn, một sự bất quân bình của tâm trí, không thuộc vào một sự phân tích hợp lý.

Chàng biết chàng cần nàng mãi mãi.

*

Hai ngày đầu tại Thái Hồ trời đầy mây, và người ta không nhìn thấy gì cả. Thái Hồ cũng giống như biển cả; phía chân trời, nước nhập nhoà với những khối mây xám mờ. Thuyền chạy sát bờ. Thỉnh thoảng một ngọn đồi hoặc một hòn đảo trong sương mù hiện ra trong cái cảnh mờ mờ hơi nuớc. Mạnh Giao trông thấy một vẻ sầu buồn trong mắt Mẫu Ðơn, và để nàng ngồi một mình trong sự im lặng trầm tư của nàng.

Vào ngày thứ ba, bầu trời quang hẳn. Họ đã tới bờ phía đông của hồ, bên trên là một màu xanh tươi của cây cối, trong những thôn xóm và thị trấn nhộn nhịp. Họ có thể uống trà nấu bằng nước suối Hoa Sơn. Tới gần trưa họ lên bộ thăm Quang Phủ. Những ngôi đền mái đỏ nằm giữa những đỉnh đồi quanh co, trong ánh nắng chói chang.

Nhờ gió đẩy, thuyền cứ thế lướt nhanh về hướng nam, và tới mũi đất của Mộc Ðô, bên ngoài Tô Châu, tại đó hoa tử đinh hương và hoa mận trắng bắt đầu nở.

Mẫu Ðơn nhớ rằng chỉ còn một ngày nữa hai người sẽ chia tay. Hai người xuống chơi tại Mộc Ðô và nghỉ ngơi trong những vọng đình, tại đó trái cây và hoa trải dài hàng dậm.

Nàng khẽ thì thầm, “Ðây là một trong những ngày hạnh phúc nhất đời em.” Màu lộng lẫy của mặt trời chiều hắt lên từ mặt hồ, như một con suối tuôn đổ một thứ ánh sáng nhẹ và kỳ lạ lên hoa trắng và lá xanh. Cơn gió nhẹ từ mặt hồ đem lại mùi hương của hoa, một vị nồng của biển cả. Hai tay ôm cằm, nàng ngồi bên bàn trà, mơ màng và thốt ra những tiếng thở dài sung sướng. Mạnh Giao ít khi thấy một người đàn bà nhiều xúc động như thế.

– Sống một cách đam mê như ngày hôm nay là điều em muốn. Em nghĩ như thế ngay từ khi em mới lớn. Huynh không thể tưởng tượng được cuộc đời của em tại Cao Xương, trông coi nhà bếp, chỉ huy đầy tớ, phải nói những lời đúng đắn mà em không định nói, với những người em không cần.

Nàng nhìn đăm đăm vào mắt Mạnh Giao. Trong mắt nàng có một vẻ đam mê, ngọn lửa và sự tinh tế của một con người không hài lòng với với cuộc đời tầm thường. Mạnh Giao cũng cảm thấy chàng chưa được sống một cách đam mê.

Nhưng tâm trí Mạnh Giao đang suy nghĩ. Bỗng nhiên cả hai im lặng. Nàng chấm ngón tay vào nước trà và viết nguệch ngoạc trên bàn trà. Chàng đưa tay nắm lấy tay nàng và giữ chặt. Mắt hai người nhìn nhau, và im lặng. Những lời nói dường như thành hình trên môi chàng rồi bốc hơi đi. Chàng dường như nhảy sâu vào đáy hồn và trồi lên với một cái gì vướng trong cổ họng. Cuối cùng chàng nói, giọng chàng như là một tiếng thì thầm:

– Tam muội, tôi không biết nói thế nào. Trong suốt cuộc đời, tôi chưa bao giờ cảm thấy như thế này.

Hai khuôn mặt ghé lại gần nhau hơn, và nàng lắng nghe, mắt run rẩy, môi mím chặt lại.

– Chuyện này không thể được. Muội là em họ tôi và cũng họ Lương. Tôi là một người già hơn. Tôi không có quyền quấy rầy cuộc đời của muội…

Bàn tay nàng nắm chặt tay chàng, và trả lời, “Anh không già đâu. Anh là một người tuyệt vời.”

Lời nói của chàng bắt đầu dễ dàng hơn. “Ngày mai em trở lại Cao Xương và chúng ta sẽ chia tay. Anh đã suy nghĩ nhiều trong ba ngày qua, kể từ khi em lên thuyền anh… Anh không có quyền nói câu này, nhưng anh không bao giờ muốn xa em nữa. Em có thể đi Bắc Kinh với anh không?”

Nàng cảm thấy tất cả sức mạnh của cái điều chàng vừa cố gắng nói. Nàng đã trở lại bình thường sau sự xúc động, và trả lời:

– Em muốn thế lắm. Em muốn không bao giờ xa anh.

– Anh không có nhiều để dâng hiến em. Tất cả những gì anh biết là anh cần em. Ðó là một cái gì bên trong anh. Anh không nghĩ anh sẽ có hạnh phúc nếu không có em. Anh cần em.

– Cần nhiều không?

– Nhiều, nhiều lắm.

– Em cũng nghĩ như thế về anh. Em là Tam muội của anh, và em tôn thờ anh. Trong hai ngày qua em cảm thấy rất buồn. Ðối với em, anh còn hơn là một người đã thay đổi cuộc đời em, hơn là một người anh họ, hơn là một người bạn. Anh là một ngọn núi của những thứ tuyệt diệu khác nhau cho em, tất cả đều tuyệt vời, đẹp đẽ. Nhưng cũng quá bất thần. Anh phải cho em thời gian để suy nghĩ.

Khuôn mặt nàng rất là trịnh trọng. Tâm trí nàng chợt nhớ tới Tần Châu và cuộc tình tuyệt vọng không thể giải quyết được. Lúc đó nàng cảm thấy một sự đau đớn vô ngần cho Tần Châu. Tuy thế cái tâm trí đàn bà sắc bén của nàng đã nhìn thấy tất cả trong một chớp nhoáng, rằng Tần Châu không bao giờ có thể lấy nàng được. Nàng rất mau lẹ trong quyết định. Nàng trả lời:

– Em rất muốn đi Bắc Kinh.

– Em sẽ đi?

Nàng im lặng gật đầu.

Ðã có một sự thông cảm giữa hai người, hai con người rất cô đơn. Không ai biết bằng cách nào và từ lúc nào hai bàn tay đã nắm chặt lại, và nàng tựa vào cánh tay chàng, nghe một cảm giác và đáp ứng của một sự thúc đẩy mạnh mẽ của lòng gắn bó lẫn nhau. Nàng ngước mắt nhìn chàng và chàng cúi xuống say sưa đắm đuối hôn môi nàng, hôn như thể chàng không bao giờ thỏa mãn được cơn thèm khát. Mẫu Ðơn cảm thấy nàng chảy tan ra thành một sự khao khát không nói nên lời. Không người nào nói được một lời. Ðó là giây phút của sự thật trần truồng và nỗi ham muốn không ngừng, khi mà những lời nói ra sẽ trở thành một sự xâm phạm không đúng lúc. Nàng vẫn đủ tỉnh táo để ngửi thấy mùi hoa tử đinh hương từ cánh đồng cỏ thoảng vào. Bàn tay chàng vuốt ve tóc nàng. Nàng không muốn một cái gì quấy rầy cái giờ phút thiêng liêng này. Một lúc sau nàng hỏi:

– Anh thích hoa tử đinh hương không?

– Thích. Hoa ấy được tạo ra cho giây phút như thế này.

– Trước kia em thích hoa tím, nhưng bây giờ em sẽ thích hoa tử đinh hương.

Cuối cùng nàng ngồi thẳng lên. Mạnh Giao hỏi:

– Chúng ta sẽ thế nào?

– Chúng sẽ thế nào nếu chúng ta cảm thấy như hiện nay? Suốt đời em, em luôn tìm kiếm cái giờ phút như thế này, một cái gì đáng kể và có ý nghĩa.

– Anh muốn nói chúng ta là anh em cùng một họ. Tuy thế anh biết anh muốn có em. Ðiều này anh biết…

– Anh chưa bao giờ cảm thấy thế này sao?

– Về thể xác anh đã biết nhiều đàn bà, nhưng chưa bao giờ cảm thấy sự khao khát như thế này, sự cần thiết đến từ trong lòng anh – cái cảm giác có một người nào nhập vào mọi thớ thịt của anh, như em… Anh nghĩ rằng đây là định mệnh, cho anh gặp em trong chuyến đi này. Em có tin định mệnh không?

Câu trả lời của nàng rất mau lẹ và trong trẻo. “Không. Tất cả những gì xảy ra cho chúng ta là do cố gắng của chúng ta. Em không tin rằng có một sức mạnh bên ngoài có thể kiểm soát được những gì xảy ra trong đời chúng ta.”

– Nhưng chúng ta có thể làm gì?

– Em không biết.

– Em họ Lương và anh cũng họ Lương. Xã hội ngăn cấm hôn nhân của chúng ta. Cái gì xảy ra nếu anh thấy rằng anh không thể sống mà không có em?

– Em không biết. Như thế đủ rồi phải không? Ðối với em được biết anh yêu em, dù em sẽ không bao giờ trông thấy anh nữa – sự hiểu biết này cũng đủ rồi. Mặc dù em sống trong nhà tù, trái tim em vẫn tự do.

– Nhưng không thể thế được. Anh không thể xa cách em được. Anh biết anh sẽ chỉ sống một nửa cuộc đời, khi không có em ở bên anh.

– Vậy thì cứ làm theo ý muốn của chúng ta. Em không bận tâm những gì người ta nói.

– Ðịa vị anh không làm thế được, cùng với sự công khai là bao nhiêu lời đàm tiếu. Em họ Lương và anh họ Lương. Như thế đi ngược lại truyền thống. Và hơn nữa, người chồng cũ của em mới chết chưa được một tháng. Chúng ta sẽ bị xã hội lên án nghiêm khắc.

– Em không cần.

– Và cả dòng họ của chúng ta nữa.

– Em không cần.

Sự bất cần của nàng làm chàng ngạc nhiên. Mạnh Giao hơi choáng váng vì tia sáng từ đôi mắt sâu thăm thẳm của nàng, một đôi mắt dường như nhìn đời bằng sự cao ngạo, và đến từ một hành tinh khác chứ không phải của trái đất này.

Nhưng ngày hôm đó không phải là một ngày yên lành. Thời tiết bất định của mùa này bất thần đưa tới một đám mây đen khổng lồ từ phía đông nam, một cơn gió lạnh thổi khắp khu hoa viên nơi hai người đang ngồi, những cánh hoa trắng bị thổi bay lả tả, báo hiệu một trận mưa lớn. Sấm chớp vần vũ ở đằng xa, trong khi đó mặt hồ vẫn phản chiếu dưới ánh mặt trời như một chiếc ao sơn vàng. Hai người ngồi trong một khu lộ thiên, cách xa chỗ có mái che chừng hai mươi thước. Mạnh Giao lên tiếng:

– Nào chạy đi.

– Sao vậy?

– Ở đây sẽ ướt hết.

– Ướt thì ướt, có sao đâu.

– Em quá lắm.

– Em thích trời mưa.

Trận mưa nặng hạt bắt đầu, rào rào trút xuống mái nhà và cây cối bằng những âm ngắt đoạn. Những làn nước mưa xiên xiên vào bên trong nhà hàng, thỉnh thoảng từng cơn gió giật mạnh. Bàn ghế ướt sũng nước. Mạnh Giao thấy người bạn gái thích thú vô cùng. Nàng cười khúc khích.

– Tạnh ngay bây giờ ấy mà.

Nhưng trận mưa rào trở thành một cơn mưa lũ. Sấm sét hoành hành, tóe ra những tia sáng ghê sợ đầy bầu trời. Mẫu Ðơn ngẩng mặt, nhắm mắt và lẩm bẩm: “Ôi thần tiên quá! Em thích mưa quá!” Mạnh Giao ngắm nàng, lòng rất vui. Trong giọng nói của nàng có một sự khích động như lúc nàng trông thấy chim cốc bắt cá trên hồ, “Ôi mênh mông vô cùng!”

Mưa không giảm bớt. Chàng sợ nàng sẽ bị cảm lạnh. Cuối cùng từ đằng xa có người cầm dù tới. Mạnh Giao nhận thấy là một tên lính cận vệ.

– Có người tới rồi.

Nhưng Mẫu Ðơn sung sướng man dại, cười sằng sặc khi dù tới. Nàng nói:

– Nào chúng ta đI!

Chàng phải phụ giúp nàng. Chiếc dù bằng giấy dầu không đủ để che kín khi họ băng qua những vũng nước mưa mới tạo ra, và những bãi cỏ sũng nước. Sấm sét vẫn nổ vang khi họ đi được nửa đường tới ngôi đền.

– Thế này còn thích hơn là hoàng hôn.

Nàng nói, giọng nàng chìm trong tiếng mưa rơi trên giấy dầu.

– Em nói gi?

Mẫu Ðơn phải hét to để át tiếng mưa rơi. “Em nói mưa thế này thích hơn là hoàng hôn lúc nãy.”

Mạnh Giao nghĩ nàng quả là một con người lạ lùng, và chàng cảm thấy trẻ trung trở lại khi chàng nhớ lại cái tuổi thơ ấu của chàng, lúc chàng rất thích chơi đùa dưới mưa – còn bây giờ chàng lớn rồi và đã quên cái thú ấy. Nhưng nàng chưa quên. Chàng có thể tìm được ở đâu một người con gái bướng bỉnh tai quái như thế? Nàng lên tiếng:

– Anh biết không? Mạnh Tử chắc cũng thích mưa lắm đấy.

– Sao em biết?

– Em cảm thấy thế. Ông ta viết vĩ nhân là những con người đơn giản chưa mất đi trái tim của trẻ con.

Thật là khôi hài, trận mưa chấm dứt vài phút sau khi họ tìm được chỗ trú ẩn trong một ngôi đền. Nàng phì cười khi trông thấy cái bề ngoài bèo nhèo vấy bùn của chàng. Lính cận vệ mượn được một chiếc khăn và lo lắng lau chùi những chỗ ướt trên quần áo chàng. Vị sư trụ trì nghe tiếng vị khách quan, vội chạy đến và mời hai người vào nghỉ trong phòng bên trong, và rót trà mời hai người. Chàng than:

– Ðinh má sẽ la trách ta như thế nào khi chúng ta trở về thuyền!

– Nhưng đây là một cái thú của du lịch. Bà ta không hiểu thế sao?

– Không, bà ta không hiểu.

– Suốt đời em, em chỉ muốn đi du lịch và thăm viếng thắng cảnh mà em đọc trong sách, được trèo núi cao cho tới lúc lên tới chỗ ở của thần thánh, chỉ cách đầu vài phân, như Lý Bạch nói.

– Thật là lãng mạn! Anh tin rằng em sinh ra với tâm hồn người đàn ông.

– Có lẽ thế. Hoặc có lẽ một người đàn ông trong thân thể người đàn bà. Có sao đâu?

– Nếu là một người đàn ông thì không sao.

Khi hai người về tới thuyền thì đèn lồng đã thắp lên rồi. Bữa tối đã dọn ra chờ họ. Nhưng người nhũ mẫu già đang nằm bẹp dí vì sợ sấm sét. Bà ta nằm chui trong đống mền, và chỉ ngồi dậy sau khi biết chắc rằng trận bão đã qua và khi hai người trở về thuyền. Rồi bà ta quên nỗi hoảng sợ của mình, và mời Mẫu Ðơn vào trong khoang để thay quần áo khô.

Mạnh Giao đứng chờ bên ngoài. Mẫu Ðơn dường như ở trong rất lâu. Một lát sau tiếng nàng vang lên sau tấm ván gỗ. “Anh có thích Thái Ðông Nguyên không?”

Mạnh Giao chỉ cười chứ không trả lời. Ðinh má vỗ vào tấm gỗ và nói, “Cô đừng để Mạnh Giao chờ lâu. Mạnh Giao cũng phải thay quần áo đấy.”

– Một phút nữa thôi.

Một phút sau nàng bước ra, nói mạnh mẽ, “Thái Ðông Nguyên là người em rất thích. Em có một cuốn sách của ông ta ở án thư.”

Chàng cảm thấy chiều hôm ấy chàng đã hành động điên rồ rồi nên trả lời, “Chúng ta sẽ bàn luận chuyện ấy sau khi anh thay quần áo đã.”

Chàng nhận thấy nàng chưa cài hết khuy áo chẽn. Chàng không thích sự trơ trẽn của nàng, tuy thế chàng khám phá ra một tinh thần khó hiểu duy nhất; nàng không giống bất cứ người nào chàng đã biết. Khi bước vào khoang thuyền, chàng thấy nàng vất quần áo lộn xộn bừa bãi trên sàn để Ðịnh má lượm giặt.

Thái Ðông Nguyên không phải là một nhà văn cho người bình dân. Ông viết cho giới học giả. Khi hai người ngồi xuống ăn tối, Mẫu Ðơn bĩu môi phụng phịu, như một con chó bị chủ mắng. Nàng không nói một lời. Ðể làm vui lòng nàng, chàng bắt đầu nói, “Như vậy em đã đọc Thái Ðông Nguyên. Anh thực là ngạc nhiên.”

Mặt nàng dịu lại. “Chính anh đã giới thiệu cho em tư tưởng Thái Ðông Nguyên mà. Anh nhắc đến ông ta trong một bài luận thuyết của anh tấn công vào gốc rễ của phái Tân Nho sĩ. Em phải mất nhiều thời giờ mới tìm được cuốn sách của ông ta nói về Mạnh Tử. Anh từng viết rằng ông ta sẽ dẫn chúng ta trở về với KhổngGiáo cổ điển, phải không.”

– Dĩ nhiên ông ta như vậy. Gốc rễ của phái Tân Nho sĩ thời Tống là Phật Giáo – quan điểm của Phật Giáo về sự thèm muốn xác thịt của con người cần phải diệt, hoặc đè nén kiểm soát bằng sự tuân giữ các giới điều. Hãy tưởng tượng, cái chữ chủ yếu của triết học Ðạo Lý là kính, sợ và tôn sùng. Người ta không thể thoát khỏi sự kiện căn bản này. Phe Tân Nho sĩ tranh đấu cho sự sinh tồn của họ chống lại Phật Giáo bằng cách dùng tư tưởng của Phật Giáo, những tư tưởng về tội và sự ham muốn dục tình. Họ Thái nghiên cứu Mạnh Tử và chứng tỏ rằng không có sự mâu thuẫn giữa bản năng và Ðạo Lý, rằng con người vốn bản thiện. Ðó là căn bản của thuyết tự nhiên của Mạnh Tử.

Chàng nói vấn đề này, và nhiều chuyện khác. Cả hai đều không chú ý đến đồ ăn. Ðinh má rất là bực mình và sai đem hâm lại đồ ăn.

– Sao không ăn xong rồi hãy bàn luận, có được không? Ðồ ăn nguội cả rồi. Chúng nó lại phải hâm rượu lại. Tôi nghĩ uống rượu hâm nóng rất tốt sau khi bị trúng mưa như thế.

Sau khi uống rượu, hai người ngồi ở đầu thuyền. Ðây là đêm cuối cùng ở bên nhau, vì nếu may mắn thì ngày hôm sau họ sẽ tới Cao Xương. Mặt hồ tắm trong ánh trăng và những bờ chung quanh hiện lên hàng hà sa số những ánh đèn, vì bây giờ họ vào tới cái quận đông dân cư của Tô Châu, gần Vũ Giang. Ngày mai họ sẽ đi vào Ðại Hà một lần nữa.

Cách xa vài trăm thước, một chiếc thuyền bồng dùng làm nhà hàng, thắp đèn sáng trưng cùng với tiếng nhạc du dương từ từ trôi ngang qua, làm gợn mặt hồ, cắt mặt nước thành từng hàng đen như mực rất linh hoạt, biến thành nhiều màu óng ánh. Từ đằng xa nghe vọng lại tiếng mái chèo đập nước, tiếng sáo buồn thổn thức và xúc động, nhưng cũng thanh tĩnh như mặt trăng vừa ló ra khỏi đám mây.

Mẫu Ðơn ngồi im lặng tại đầu thuyền, đầu nàng hất ngược lên một vẻ trầm tư. Chàng ngắm nàng và nhận thấy mắt nàng ướt nước mắt. Có nhiều lý do cho những giọt lệ ấy – tương lai của nàng, Tần Châu, và có lẽ là vì đêm cuối cùng của hai người trên hồ. Chàng tôn trọng sự riêng tư của tư tưởng nàng và không muốn dò hỏi. Một lát sau chàng lên tiếng:

– Sao em không nói gì cả?

– Không có gì để nói cả. Em chỉ muốn cảm thấy… muốn in cái ký ức của đêm nay vào tâm trí em. Mọi lời nói đều không đủ, phải không anh?

– Em nói đúng. Vậy thì đừng nói gì nữa.

– Nói gì cũng chẳng ích lợi gì.

Nàng chậm rãi phê bình, những âm thanh của cái giọng nói nhỏ, giống như tiếng khánh rơi xuống mặt hồ im lặng, như những viên sỏi ném vào chiếc chén ngọc.

Chàng trông thấy nỗi đam mê ước ao trên mặt nàng. Rồi tâm trạng nàng thay đổi. Nàng muốn thật vui vẻ cái đêm đáng ghi nhớ nhất này. Bắt được một điệu nhạc từ đằng xa, nàng khẽ hát một bài ca, những âm điệu run rẩy trong sự im lặng tràn đầy ánh trăng. Chàng im lặng lắng nghe.

Ðêm đó không người nào nói quá vài lời, vì sự yên lặng quanh họ quá hùng biện, trong khi mặt trăng trôi theo đám mây, chiếu xuống những tia sáng từ những đám mây viền bạc, như một cô dâu nửa che giấu và e lệ, bây giờ phải phô cả khuôn mặt tròn trĩnh, tuôn tràn đêm trường bằng sự chói sáng êm dịu run rẩy, khiến những người tình trở nên cuồng si hơn. Mạnh Giao trở vào khoang nhưng Mẫu Ðơn vẫn ngồi im lặng ngắm trăng cho tới nửa đêm. Thỉnh thoảng nàng quay nhìn vào trong thuyền, và nhờ ánh sáng lọt qua khe hở, nàng biết chắc chàng vẫn còn thức đọc sách hay viết. Khi nàng đi vào, Ðinh má đang ngáy say sưa trong giấc ngủ.

*

Sáng hôm sau Mẫu Ðơn bị nhức đầu khi thức dậy. Nàng trải qua một đêm trằn trọc, biết rằng nàng phải làm một quyết định đau đớn nhưng không tránh được. Tất cả đều bất lợi cho Tần Châu. Trong thư, nàng bảo Tần Châu rằng nàng sẵn sàng chờ đợi hai hoặc ba năm để được làm vợ chàng; nhưng dần dần nàng hiểu rằng không thể bắt chàng bỏ vợ, gia đình và địa vị xã hội. Hai người bí mật gặp nhau trong bốn năm – bốn năm đam mê, ao ước và hối hận mà không đi tới đâu. Ngoài việc ly dị thì không còn một giải pháp nào nữa; một người con gái của một gia đình đàng hoàng không thể chấp nhận cái địa vị làm vợ bé. Mẫu Ðơn mong ước có một giải pháp để thoát cảnh tuyệt vọng. Cuối cùng nàng biết nàng phải xa Tần Châu; chắc chắn chàng sẽ đau đớn lắm, và nàng cũng đau đớn không kém. Nhưng nàng không còn tìm ra cách nào khác. Và bây giờ lại có Mạnh Giao. Mạnh Giao thực là xuất chúng cả về tư cách và tinh thần. Nàng làm sao có thể đòi hỏi hơn thế ở một người đàn ông? Nàng biết nàng yêu Mạnh Giao bằng tất cả sự nông nổi của mối tình mới, nhưng cũng bằng một sự cảm thông bắt nguồn từ những gì nàng biết về chàng trong những năm thơ ấu. Và nàng không thể tự lừa dối: Bắc Kinh mở ra cho nàng một thế giới mới mẻ, với sự hấp dẫn vô cùng của một nơi xa lạ.

Ðây là ngày cuối cùng của chuyến đi. Tâm hồn Mẫu Ðơn nặng chĩu với ý nghĩ về cuộc chia ly sắp xảy ra. Trong khi Ðinh má bận rộn sắp xếp hành lý tại cuối thuyền, nàng lợi dụng cơ hội một mình với Mạnh Giao. Nàng buồn bã nói:

– Hừ, đây là ngày cuối cùng ở bên nhau.

Mạnh Giao thong thả trả lời, “Chúng tôi sẽ gặp lại nhau một ngày gần đây, nếu em không thay đổi lòng. Em đã cân nhắc kỹ lưỡng chưa?”

– Em đã nghĩ kỹ rồi. Em muốn đi Bắc Kinh với anh.

– Nhưng em có nghĩ rằng em có thể rời bỏ gia đình chồng ngay được không? Anh sẽ trở lại Hàng Châu vào cuối tháng Tám hoặc đầu tháng Chín. Bây giờ anh có lý do phải trở về sớm.

– Em tin chắc em sẽ rời bỏ nhà chồng sớm. Như một ngạn ngữ nói, người ta không thể giữ một goá phụ bất đắc dĩ. Em sẵn sàng đi theo anh, nếu anh muốn thế.

Mạnh Giao nói bằng một giọng rất vui vẻ. “Em làm anh kinh ngạc. Có phải đó là cái em gọi là sống đam mê không?”

– Phải.

– Không được, Mẫu Ðơn. Ñt nhất em phải sống qua một trăm ngày tang. Em sẽ gây ra nhiều chuyện đàm tiếu, ngay cả khi em ra đi sau một trăm ngày. Dẫu sao, không có lý do gì em phải ra đi sớm, vì mãi tháng Chín anh mới trở về. Anh khuyên em nên tìm cách cắt đứt với gia đình chồng một cách thân thiện. Em có thể đi Bắc Kinh với anh như là một cô em họ, và không ai sẽ nói gì.

Nàng thò tay nắm chặt tay chàng. Khi nhận thấy Ðinh má lại gần, câu chuyện của họ thay đổi ngay. Nàng hỏi:

– Anh sẽ ở đâu tại Hàng Châu?

– Dĩ nhiên ở nhà dì anh.

– Xin lỗi anh, em phải đi sắp xếp hành lý.

Nàng nhìn Mạnh Giao và mắt nàng lấp loáng nước mắt. Người nhũ mẫu già trông thấy tất cả. Sau bữa ăn trưa, nàng cảm thấy mệt mỏi và vào nằm trong khoang riêng của nàng. Mạnh Giao đề nghị:

– Sao không vào khoang của anh mà nghỉ. Em ngủ ở đó tốt hơn mà.

– Anh không ngủ trưa hay sao?

– Không. Anh tiếp tục đi theo con thuyền. Anh có thể ngủ tối nay bao nhiêu cũng được.

Khi nàng vào khoang thuyền nằm nghỉ, Ðinh má nói với Mạnh Giao, “Thật là một nàng con gái tội nghiệp, cô ta hoảng sợ khi nghĩ đến gia đình chồng. Tôi nghe thấy cô nàng hỷ mũi suốt đêm.”

Mạnh Giao có vẻ sầu não. Chàng không muốn nói cho bà ta biết về dự định mới của hai người. Ðinh má chắc chắn sẽ sung sướng đưa ra lời khuyên và sự khôn ngoan của một bà già.

– Má nghĩ thế nào về cô ấy?

Ðinh má thì thầm, “Má chưa bao giờ trông thấy một goá phụ hành động như vậy. Dù con thích hay không, má sẽ nói má nghĩ gì về cô ấy. Cái cách cô ấy ngồi, cái cách cô ấy đứng! Và cô ấy phải mặc váy cho đúng hình thức, ngay cả khi chúng ta ở trên thuyền. Má chưa bao giờ thấy một người bừa bộn như thế. Má sắp đặt quần áo giặt rồi vào rương của cô ta. Con phải trông thấy mới được – cô ấy tống tất cả vào. Và bàn chải của cô ta nữa. Nó loe ra bằng phẳng. Má thì đã liệng đi bàn chải như thế từ lâu rồi và mua một cái mới.”

Chàng cảm thấy phải bênh vực Mẫu Ðơn. “Con biết má sẽ làm thế, nhưng một cái bàn chải loe ra thì đã sao?”

Nheo mắt nhìn Mạnh Giao, bà già nói tiếp, “Mạnh Giao, con không biết đàn bà. Má biết. Ðàn ông đánh giá đàn bà bằng cái mặt đẹp. Cô ta thực là đẹp quá, má công nhận thế. Nhưng má tội nghiệp cho người đàn ông nào sẽ làm chồng cô ta.”

Mạnh Giao chắc lưỡi. “Con nghĩ cô ta rất đẹp và rất thông minh.” Mặc dầu không muốn nhưng chàng vẫn phải tiếp tục cuộc bàn luận.

– Má biết con thích cô ta. Con không giấu má được đâu.

– Phải, con thích cô ta. Tại sao con phải giấu má chứ?

– Con thật là bướng bỉnh. Tại sao con không chọn một cô gái tử tế mà lấy làm vợ? Nếu thân mẫu con còn sống, bà ta sẽ tìm vợ cho con từ lâu rồi. Nên nhớ con đã gần bốn mươi mà vẫn chưa có hậu đấy. Nhưng con sẽ không nghe lời má đâu… Nếu con muốn lập gia thất, xin đừng chọn một cô gái như cái cô này. Má không biết tối qua hai người nói chuyện gì trong bữa ăn tối. Nhồi nhét sách vở và tư tưởng vào óc một cô gái không ích gì. Con phải chọn một người vợ có thể săn sóc cho con…

Mạnh Giao vui vẻ nói tiếp, “… và nấu ăn, giặt giũ và khâu vá quần áo. À con quên mất. Tại sao con không lấy một nhà hàng và một tiệm giặt ủi?”

– Thôi đủ rồi. Thật là bướng bỉnh, con là như thế đó.

Mạnh Giao đã quen với cách lấn át của bà nhũ mẫu. Chàng ngừng lại một giây và nói bằng một giọng dỗ dành, “Ðinh má, má giống như một người mẹ của con. Tối hôm nọ má nói muốn về nghỉ hưu tại Hàng Châu để sống với con cháu. Con không trách má đâu.”

– Ai mà không muốn về hưu trong tuổi già và sống tại quê quán của mình?

Mạnh Giao nói, “Con cũng đã nghĩ đến việc này. Lần này khi con trở lại, con sẽ thuê một người làm khác và kết hôn với một nhà hàng và một tiệm giặt ủi. Má không còn phải lo cho con nữa. Con sẽ được nuôi ăn và được tắm rửa.”

– Con thật là biết ơn! Như vậy con không cần má nữa, phải không Mạnh Giao?

– Con nói đứng đắn mà. Con sẽ không bao giờ quên má. Nếu má thực tình muốn, con sẽ biếu má ba trăm quan. Má có thể mua một nông trại và sống no ấm.

Họ đã tới gần Cao Xương, tại đó Ðại Hà chạy giữa hai hàng nhà cửa ở hai bên bờ. Khi tới gần giờ chia tay, Mẫu Ðơn không kiềm chế được và bật lên khóc nức nở. Khóc như thế thực là tiện lợi, vì gia đình nhà chồng sẽ trông thấy đôi mắt sưng húp vì khóc của người goá phụ xinh đẹp và tận tụy với chồng.

Trên chiếc cầu ván thuyền, nàng quay lại, hai mắt đẫm lệ nhìn Mạnh Giao, và không nói một lời từ biệt, nàng bước lên bờ.

Khi nàng đi rồi, Mạnh Giao bước vào khoang trong để nghỉ. Chàng trông thấy một mẩu giấy đặt dưới cái đồ chặn giấy, ghi địa chỉ của nàng, với một lời nhắn nhủ, vẻn vẹn có ba chữ: “Viết cho em.”

Mạnh Giao trở lại Hàng Châu vào đầu tháng Chín. Chàng đi Phúc Châu bằng thuyền, rồi bằng ngựa, đi qua những ngọn núi đẹp nhất mà lần đầu chàng được thấy. Mãi đến cuối tháng Tám chàng mới làm xong nhiệm vụ tại Viện Hải Quân. Ðể tới Hàng Châu vào tháng Chín như chàng đã hứa với Mẫu Ðơn, chàng phải đi đường biển – mặc dù chàng rất ghét biển cả.

Hôm nay có một sự hồ hởi sôi nổi trong gia đình Mẫu Ðơn. Người goá phụ trẻ đã trở lại Hàng Châu một tuần lễ trước cùng với mẹ. Bà mẹ đã đích thân tới nhà chồng đem con gái về, theo lời yêu cầu của Mẫu Ðơn. Bà mẹ bao giờ cũng thiên vị Mẫu Ðơn. Bà muốn con gái được tự do, thoát khỏi mọi ràng buộc. Bà không muốn con gái chịu đau khổ trong nhà họ Phí. Việc này đã gây nên nhiều ác cảm trong nhà họ Phí; ngay cả ông bố nàng cũng hốt hoảng vì việc này. Nhưng bà mẹ đã tranh đấu và đã thắng, và đã đi đến sự dàn xếp cuối cùng. Tuy Mẫu Ðơn đem theo tất cả những vật dụng riêng tư về nhà, nhưng hai nhà đã đồng ý cho người ngoài biết rằng nàng chỉ về thăm nhà trong một thời gian để nghỉ ngơi thôi. Ngày nàng ra đi, không một người nào trong nhà họ Phí tiễn đưa; hành lý của nàng được gia nhân nhà họ Phí mang xuống thuyền.

Quan Hàn Lâm nghỉ tại nhà họ Tô; đêm nay ông bà Tô mở tiệc khoản đãi ăn mừng sự trở về của quan Hàn Lâm. Ðây là một cuộc họp mặt gia đình, nên không mời khách khứa. Chính Mạnh Giao muốn tránh những cuộc tiếp tân và những đại tiệc mà chàng rất không thích. Việc làm đầu tiên khi tới nơi là chàng ghé thăm gia đình Mẫu Ðơn. Nàng đã báo cho cha mẹ biết Mạnh Giao đề nghị đưa nàng đi Bắc Kinh. Ông bố khá bối rối về tin này, cũng như bực mình khi con gái từ chối không chịu ở lại nhà họ Phí làm một góa phụ, đúng theo truyền thống tốt đẹp nhất. Theo ông thì hành động của con gái không chính đáng, và ông đề nghị rằng nếu Mẫu Ðơn đi Bắc Kinh thì Hải Ðường cũng phải đi theo. Ông nói dẫu sao quan Hàn Lâm cũng là một người độc thân và không có đàn bà khác trong nhà. Hải Ðường vô cùng sung sướng được đi Bắc Kinh. Vì thế trong nhà lúc nào cũng hào hứng khích động và bàn tán nhiều; mọi người nghĩ rằng vấn đề này sẽ được nêu ra trong bữa ăn tối.

Mẫu Ðơn rất sung sướng trước một khúc quanh mới trong đời nàng. Tuy Mạnh Giao rất xã giao bề ngoài và không nói nhiều trong lần viếng thăm hôm trước, nhưng nàng cảm thấy bồi hồi khi chàng trở lại vào đúng đầu tháng Chín, như chàng đã hứa. Chàng đã viết cho nàng hai lá thư rất tha thiết từ Phúc Châu, và nàng tin tưởng tình yêu của chàng.

Hải Ðường nhắc nhở nàng bằng cái giọng nói êm dịu cố hữu, “Chị phải sửa soạn đi. Chị sung sướng cái gì thế?”

Thời tiết mỗi lúc một lạnh hơn, và Mẫu Ðơn lê dép lang thang trong nhà, tay cầm chiếc đập ruồi, đi tìm những con ruồi cuối cùng của mùa hạ. Trong cơn ham đuổi một con ruồi khéo lẩn tránh, nàng sảng khoái la lên:

– Bởi vì chị được tự do, tự do, tự do! Em có biết điều ấy có nghĩa là gì với chị không?

Không thèm để ý đến lời nói của chị, Hải Ðường hỏi:

– Chị mặc áo nào? Em nghĩ tốt hơn là chị mặc áo trắng, cho phải phép. Chị đang phải để tang và chúng ta không muốn người khác bàn tán.

– Em nghĩ là người ta sẽ dị nghị ư?

– Chúng ta sợ quan Hàn Lâm có thể nghĩ chị không hiểu biết.

Nàng mỉm cười, “Chàng hiểu mà.”

Ngay lúc nàng sắp tắm rửa và sửa soạn đi ăn tối, thì Bạch Huệ bất thần xuất hiện.

– Bạch Huệ!

Mẫu Ðơn sung sướng reo lên một cách hào hứng. Hai người không gặp nhau hơn một năm rồi. Bạch Huệ là người bạn thân nhất của nàng, và từ Ðông Lục tới thăm; vợ chồng nàng có một căn nhà trên núi rất nên thơ. Nàng đến đây hôm nay chỉ để thăm Mẫu Ðơn.

Mắt hai người bạn gái nhìn nhau, rất chú tâm quan sát nhau. Không bao giờ có hai tính khí giống nhau như thế; giữa hai người không có sự bí mật riêng tư. Mẫu Ðơn rất yêu quí bạn – yêu quí tinh thần, sự thông minh mau lẹ và cung cách duyên dáng của bạn. Nàng sung sướng thấy Bạch Huệ có được một người chồng như Như Thủy. Về một khía cạnh thì Bạch Huệ bừa bãi, thơ mộng lãng mạn và bất cần đời hơn Mẫu Ðơn. Mẫu Ðơn đã từng mơ ước rằng nàng cũng tìm được một người đàn ông hiểu nàng, chấp nhận nàng và tình yêu của nàng, giống như Như Thủy yêu Bạch Huệ.

Bạch Huệ gầy hơn Mẫu Ðơn. Nàng thường thay đổi kiểu tóc. Bây giờ nàng theo kiểu tóc chải bồng như những thiếu nữ du học Nhật Bản. Nàng mặc quần bó, một việc cha mẹ Mẫu Ðơn cho là gai mắt. Tất cả đàn bà có chồng trong giai cấp của họ đều mặc váy. Nhưng Như Thủy chấp thuận và ưa thích loại quần bó của vợ.

Giọng của Bạch Huệ rất dịu dàng, “Thế là chị tự do rồi! Con quỷ này!” Hải Ðường lặng lẽ quan sát hai người. Mẫu Ðơn trả lời:

– Phải, tự do rồi. Tôi về thăm mẹ; nhưng sẽ không trở lại nhà chồng nữa. Có một điều chị chưa biết là tôi sẽ đi Bắc Kinh.

Hải Ðường nói theo, “Ðúng thế, em cũng đi nữa.”

Bạch Huệ trợn mắt ngạc nhiên. “Khoan đã, tôi không nghe hai người cùng nói một lượt.”

– Quan Lương Hàn Lâm, anh họ tôi, hiện ở đây. Chị còn nhớ ông ta không? Chúng tôi sẽ đi Bắc Kinh với ông ta.

Bạch Huệ nhìn hai chị em đang hớn hở, và nói, “Tôi thèm được như các bạn. Tôi chắc ông ta sẽ tìm chồng cho hai chị em. Chừng nào đI?”

– Chúng tôi cũng chưa biết chắc. Tối nay chúng tôi đi ăn tại nhà Tô thúc thúc. Có lẽ chúng tôi sẽ phải đi ngay.

Bạch Huệ quay lưng ra về, và nói với Mẫu Ðơn, “Này, tôi phải nói chuyện với chị vài phút.”

Hai người bước ra khỏi cổng. Hải Ðường không ngạc nhiên. Nàng đoán là có chuyện liên quan tới Tần Châu, nhưng nàng không bao giờ hỏi.

Khi chỉ còn có hai người, Bạch Huệ nắm tay Mẫu Ðơn, và hai người lững thững bước xuống lối đi.

– Tần Châu hiện có mặt ở đây. Anh ta muốn tôi cho chị biết. Hai người định làm trò gì nữa đây? Anh ta nói muốn gặp chị ngày mai. Tôi có cảm tưởng anh ta mập mờ cho tôi biết anh ta sẽ xin thuyên chuyển về Hàng Châu và sống tại đây. Chị có gặp anh ta không?

– Dĩ nhiên là có chứ. Chị bảo anh ta tôi sẽ tới. Ngày mai.

*

Gia đình Mẫu Ðơn chưa tới. Nhà họ Tô ở giữa thành phố, cách nhà Mẫu Ðơn chừng mười phút đi bộ; bức tường chung quanh nhà cao tới mười thước; đây là hoả tường, có mục đích ngăn chặn không cho những đám cháy lan ra. Nhiều nhà xây tường cao như thế tại những phố xá đông đúc có mật độ dân chúng quá cao.

Ông Tô đã ngoài sáu mươi tuổi; ông có khuôn mặt dài và bộ râu màu vàng tái. Ông đã về hưu hưởng tuổi già và giao cho con trai điều khiển công việc làm ăn tại Kinh Hạ. Ông cực kỳ hãnh diện vì quan Hàn Lâm, người cháu của vợ. Tuy ông họ Tô, nhưng ông cảm thấy hãnh diện được có liên hệ với Lương Mạnh Giao.

– Cháu phải cho họ hàng cơ hội ăn mừng cháu. Lần trước cháu đi ngang qua Hàng Châu, người ta trách chú không cho họ biết. Dẫu sao cháu cũng ít khi về thăm quê nhà, và họ hàng rất hãnh diện vì cháu.

– Cháu xin chấp nhận nhã ý của họ hàng. Cháu về đây không phải vì công vụ, và cháu không nên dự đại tiệc, và chỉ nên âm thầm trong gia đình thôi. Dĩ nhiên, cũng có Nghi thân vương, quan Tuần vũ ở đây. Ông ta là bạn cũ và ngày mai cháu phải tới thăm ông ta. Còn người trong họ, cháu rất vui lòng gặp.

– Thế thì mừng quá. Họ hàng thực lòng lắm. Cho chú vài ngày sửa soạn. Cháu không phải về Bắc Kinh gấp chứ?

– Dạ không. Công việc của chú thế nào?

– Con trai chú trông nom. Có năm khá có năm không khá. Nhưng chú cũng có đủ để sống rồi.

Ông trả lời xong, hoan hỉ vuốt râu. Ðúng lúc đó bà Tô bước vào phòng khách. Bà có vầng trán cao và mắt xanh của nhà họ Lương. Bà đơn sơ nhưng ăn mặc sang trọng trong chiếc áo choàng đen không đeo nữ trang. Bà chống một cây gậy, và thân thể hơi lúc lắc khi bà bước đi với hai bàn chân bó nhỏ xinh sắn.

Bà Tô nhìn đồng hồ và nói, “Khách phải tới rồi mới phải.” Bà ngồi xuống ghế ngả lưng vào một cái gối tựa màu lam ngọc. Bà lên tiếng hỏi Mạnh Giao:

– Bao giờ cháu ra thăm mộ mẹ? Dì già quá rồi; nếu không dì sẽ đi với cháu. Ðã ba bốn năm dì chưa ra viếng mộ mẹ cháu.

– Cháu định thăm mộ ngay.

– Và cháu nữa. Ðạo hiếu không phải chỉ là hy sinh. Nếu cháu yêu mẹ cháu, thì cháu phải có vợ và nàng hầu để tiếp tục hương khói. Dì đã có hai cháu nội rồi, và tương lai của dì được bảo đảm. Cháu phải nghĩ đến việc này một cách nghiêm chỉnh mới được.

Mạnh Giao trả lời một cách vui vẻ, “Cháu biết, cháu biết. Các mệnh phụ tại Bắc Kinh cũng bảo cháu như vậy. Ðàn bà chẳng còn việc gì khác ngoài việc này hay sao? Cho tới nay, cháu vẫn thoát được âm mưu của họ.”

Bà Tô chỉ một ngón tay cảnh cáo, “Ðừng có tưởng là khôn. Cháu sẽ hối tiếc đấy. Tại sao cháu sợ hôn nhân thế? Có phải đàn bà đều là ma cà rồng thèm hút máu cháu hay sao?”

– Dì đừng nói như thế. Quan Ðại học sĩ Trương muốn làm mai cho cháu. Ðiều không may là mọi người làm mai chỉ muốn cháu lấy con gái quan thừa tướng thôi, hoặc là cái mà họ gọi là thiên kim tiểu thư. Cháu là một hàn lâm, vì thế chỉ có con gái nhà giầu mới môn đăng hộ đối. Luôn luôn họ nhắc tới “môn hộ.” Thực tình cháu hoảng sợ. Nếu có một giai cấp con người mà cháu không thể nào chịu đựng được, thì đó là loại hợm hĩnh – những người bất ngờ trở nên giầu có, hoặc cha mẹ giầu, và bản thân họ chẳng làm được gì, nhưng vẫn lên mặt ta đây. Có những người nghèo tồi tệ, nhưng cháu cũng thấy quanh mình nhiều người giầu tồi tệ.

Tiểu Nhã, đứa cháu nội năm tuổi sống với bà Tô, hý hửng chạy vào báo tin khách đã tới. Người ta nghe thấy giọng nói trẻ trung của chị em Mẫu Ðơn từ hoa viên ngoài. Thằng bé vội chạy ra nhập bọn với khách.

Ông bà Lương bước vào, theo sau là Mẫu Ðơn, Hải Ðường và thằng bé. Bà Tô đứng dậy đón khách. Tất cả đều tự nhiên thân mật. Ông Lương bước lại chỗ Mạnh Giao và ông Tô đang nói chuyện. Hải Ðường bước vào trong bếp. Hải Ðường là cô cháu gái ưa thích nhất của bà Tô, cũng như của cha nàng. Trong mấy năm vừa qua, vì Mẫu Ðơn không có nhà, nàng đến thăm bà cô luôn. Bà Tô rất thích sự trầm tĩnh đáng yêu và nhân cách lặng lẽ của nàng. Bà nói đùa rằng bà chỉ có con trai nên coi Hải Ðường là con gái. Hải Ðường tới nhà bà tự nhiên như là nhà nàng vậy.

Mẫu Ðơn ngồi bên bà Tô và mẹ nàng. Nàng hơi căng thẳng và bận tâm đến việc gặp gỡ Tần Châu ngày hôm sau. Rồi Hải Ðường từ trong bước ra, bưng một tô lớn có nắp đậy; thằng Tiểu Nhã nhảy nhót theo sau.

Bà Tô nói, “Con hãy để đầy tớ nó bưng cho.”

Hải Ðường thông báo, “Nào, xin mời dùng. Ðây là vịt hấp.” Bữa ăn rất thân mật. Ðầy tớ ra hầu, nhưng Hải Ðường tự mình trông coi việc sắp ghế và đặt đũa vào đúng chỗ. Tiểu Nhã lúc nào cũng kè kè bên cạnh nàng, làm nàng vướng víu. Nàng rầy thằng bé:

– Ngồi xuống chỗ kia.

Khi mọi ngưòi yên vị rồi, bà Tô lên tiếng, “Tôi ước gì có được một đứa con gái như Hải Ðường.”

Tiểu Nhã la to, “Bà nội có rồi mà!”

Hải Ðường lấy tay chặn môi thằng bé và nói, “Im lặng! Ðừng nói to quá thế.” Hiển nhiên là thằng bé được ông bà nội cưng chiều quá đáng.

Bà Tô chắc lưỡi và nói với mẹ Mẫu Ðơn, “Thật là hạnh phúc khi có con cái quanh mình. Chắc chị rất sung sướng đem được Mẫu Ðơn về.”

Hải Ðường rất bận rộn coi sóc đồ ăn và rót rượu. Nàng trắng xanh hơn Mẫu Ðơn, với đôi mắt nai dịu dàng. Nàng giống chị ở cái mũi nhọn, cằm cân đối và khuôn mặt trái soan; nhưng trong khi Hải Ðường chỉ xinh sắn thì Mẫu Ðơn rất đẹp. Mẫu Ðơn có một vẻ mơ màng, và mắt có những tia sáng bất thường khiến nàng đẹp não nùng và không thể quên được.

Mẹ Mẫu Ðơn trả lời, “Dĩ nhiên rồi. Tôi rất mừng Mẫu Ðơn được trở về nhà. Tôi đã hứa sẽ không cho ai biết nó rời bỏ gia đình chồng vĩnh viễn. Chúng tôi sẽ cho người ta biết dần dần.”

Cha nàng nói với Mạnh Giao, “Con gái tôi thật là bất thường. Tôi không chấp thuận việc này. Nhưng đàn bà bao giờ cũng thắng. Cháu có nghĩ là hàng xóm và mọi người sẽ nghĩ xấu không? Ðáng lẽ nó phải chờ thêm ít nhất một năm nữa.”

Cha nàng từ nhiều năm vẫn là một viên chức ngân hàng chăm chỉ, tín cẩn và đàng hoàng. Bằng sự cần kiệm, ông đã dành dụm được đủ tiền mua nhà riêng; ông đã hy sinh rất nhiều cho gia đình, và muốn được con cái kính trọng. Nhưng bây giờ, khi con gái lớn khôn, ông chỉ thấy Mẫu Ðơn tiếp tục gây khó khăn cho ông.

Vợ ông đã phải đi đem Mẫu Ðơn về nhà, trái với ý muốn của ông. Rồi khi về tới nhà, Mẫu Ðơn đã khoái trí la hét, “Ba ơi, con tự do rồi!” và liền sau đó nàng cho biết sẽ đi Bắc Kinh với người anh họ. Từ thuở thơ ấu, Mẫu Ðơn luôn luôn quyết định trước làm bất cứ cái gì nàng muốn, dù ông bố thích hay không. Ông rất lo ngại quan Hàn Lâm nghĩ rằng ông không trừng phạt hành động sai trái và sự coi thường tập tục xã hội. Mẫu Ðơn nhìn cha rồi nhìn Mạnh Giao. Nàng có thể thấy thái độ của cha nàng rất kính trọng Mạnh Giao; ông sẽ chấp nhận bất cứ điều gì ông hàn lâm nói.

Mạnh Giao nói với ông, “Thưa chú, cháu nghĩ chú rất đúng khi nói rằng hàng xóm có thể nghĩ xấu. Nhưng nếu chú nghĩ con gái chú có hạnh phúc không khi ở lại trong nhà chồng mà cô ấy không yêu thích, thì lại là chuyện khác. Cháu nghĩ hạnh phúc của cô ấy mới là điều quan trọng. Dẫu sao, người ta chỉ có một đời để sống.”

– Dĩ nhiên tôi nghĩ như thế.

– Hôm qua thím cho cháu biết rằng chú quyết định không cho người ngoài biết chuyện này. Và nếu người ta không biết thì người ta sẽ không nói gì. Vì thế chú không có lý do để lo ngại.

Mẫu Ðơn cố nén một nụ cười.

Bà mẹ chắc hồi còn trẻ đẹp lắm. Bà ta nói thêm, “Việc hôn nhân của nó là một sự sai lầm. Mẫu Ðơn đau khổ lắm. Bây giờ chồng nó chết rồi, tôi sẽ không hy sinh hạnh phúc của con tôi để giúp nhà họ Phí sung sướng.”

Bà Tô nhìn cha mẹ Mẫu Ðơn và giấu một nụ cười.

Uống rượu một lát rồi, ông Tô đề nghị uống rượu mừng Mạnh Giao. Mọi người cảm thấy hân hoan, rồi câu chuyện chuyển sang vấn đề hai chị em đi Bắc Kinh. Tất cả đều đồng ý rằng nếu Mẫu Ðơn nhất định đi, thì cả hai chị em cùng nên đI.

Hải Ðường đứng dậy, cầm một tách rượu. Trong cái phong cách lặng lẽ nhưng khoan thai, nàng thong thả nói, “Chúc mừng đại ca! Thật may mắn bất ngờ cho chị em chúng em! Ðể em đề nghị thế này: Nếu đại ca không chê chúng em bất xứng, xin đại ca nhận chúng em là môn đệ.”

Từ đầu Mẫu Ðơn vẫn im lặng. Nàng đứng dậy cùng em gái chúc rượu Mạnh Giao. Trong gia đình, Mạnh Giao được gọi là Ðại ca. Nàng nói, “Ðại ca, hãy nói cho mọi người biết về công việc của đại ca, hoặc nói về Bắc Kinh đI.”

Tất cả đều có vẻ muốn nghe.

– Tôi không biết bắt đầu ở chỗ nào.

Hải Ðường gợi ý, “Hãy nói về triều đình, hoặc Từ Hy Thái Hậu, hoặc bất cứ chuyện gì.”

Ông Tô nói thêm, “Hãy nói về triều đình.”

Gân máu nổi lên hai bên thái dương Mạnh Giao, nhưng mặt chàng không đỏ vì rượu. Chàng thong thả mỉm cười và nói:

– Triều đình hả? Thực là bê bối.

Bà Tô hỏi, “Cháu nói thế nghĩa là gì?”

– Ðó là vấn đề nhân cách. Hãy lấy Viện Hải quân Phúc Châu làm thí dụ. Trong đó đầy những người nhà của ông này ông kia quan trọng tại Bắc Kinh. Và nói chung thì chỗ nào cũng vậy. Cháu nghĩ chúng ta không thể xây dựng được một hải quân tân tiến. Khi chiến tranh xảy ra, hải quân của chúng ta không thể cầm cự được ba mươi phút.

Rồi chàng nói về viên tổng đốc Lưỡng Quảng Diệp Danh Thám đã đưa ra sáu nguyên tắc để chống lại quân Pháp bằng hai câu thơ:

Ta không tấn công, không phòng vệ, không cầu hoà;

Không tử chiến, không đầu hàng và không đào tẩu.

Hai câu thơ “sáu không” của ông ta thực là đáng thưởng huy chương. Cả nhà đều phì cười về mẩu chuyện này. Ông Tô hỏi:

– Thế còn Hoàng Ðế thì sao?

– Cháu không muốn bất cứ điều gì nói ở đây đi ra ngoài cửa. Hoàng đế thực là anh minh. Ðối với chúng ta ngài là Hoàng Ðế, nhưng ở trong hoàng cung ngài chỉ là cháu của Thái Hậu. Minh Trị Thiên Hoàng của Nhật Bản may mắn hơn. Ông ta không có một bà cô già ngu dốt ngăn cản. Minh Trị và hoàng thân Ito là những người xuất chúng, và hai người đã thành công cải cách được quốc gia.

Bà Tô nói, “Hãy nói về quan Ðại học sĩ Trương Chi Ðông và Lý Hồng Chương.”

– Dĩ nhiên cháu sẽ thiên vị cho cấp trên của cháu. Trong triều luôn luôn có sự tranh chấp về nhân sự. Cả hai vị là những vĩ nhân. Nhưng tiếc thay Lý Hồng Chương hiện đang nổi bật. Mọi người chắc nghe nói về những cải cách – hầm mỏ, đường xe lửa vân vân. Họ Lý dính dấp về tài chánh rất nhiều trong tất cả những cải cách này. Công ty Hàng Hải Trung Hoa là một thí dụ xấu xa nhất.

– Còn Trương Ðại Học sĩ?

– Ông ta là một vĩ nhân – một người có viễn kiến. Ông nghĩ rằng Trung Hoa phải mau lẹ học hỏi Tây phương nếu không sẽ tàn bại. Ông đang tính khởi sự một phong trào gọi là “Sức Mạnh Qua Sự Học.” Những người có thể học hỏi sẽ mạnh mẽ, những kẻ từ chối học hỏi sẽ già cổ và bị đào thải.

Hải Ðường hỏi, “Ðại ca làm gì cho Trương Ðại Học sĩ?”

– Là tân khách. Tôi không phải là nhân viên thuộc cấp của ông ta, nhưng tôi được mời đến như một người bạn hoặc một người khách trong tư dinh của ông ta. Chắc cô biết những người cố vấn. Tôi không có giờ trong văn phòng, không có một bổn phận rõ ràng. Chúng tôi bàn thảo các vấn đề, chính sách khi có chuyện xảy ra.

Lương Mạnh Giao một thời làm cố vấn cho một tướng quân tại miền tây bắc. Trương Chi Ðông một lần trông thấy bản biểu tấu do chàng soạn thảo cho viên tướng và rất cảm phục bản biểu tấu. Viên tướng bị thất trận liên miên trước quân phiến loạn. Viên tướng viết, “Chúng tôi tiếp tục chiến đấu, và luôn luôn thất trận.” Lương Mạnh Giao cầm cây bút và đảo ngược lại như sau: “Chúng tôi luôn luôn thất trận, nhưng luôn luôn tiếp tục chiến đấu.” Trương Chi Ðông liền “mượn” họ Lương từ viên tướng và không bao giờ trả lại, và cũng không có ý định như vậy. Ðã từng có rất nhiều tân khách cố vấn nổi tiếng. Khi họ làm việc cho một quan tổng đốc, viên tổng đốc thành công; khi họ bỏ đi, viên tổng đốc thất bại. Ngoài việc thảo biểu tấu cho triều đình, họ giúp nghiên cứu những cuộc khủng hoảng và vấn đề khó khăn, và soạn thảo chính sách. Công việc của họ đòi hỏi phải có sự minh mẫn, phản ứng mau lẹ và mới mẻ, trong khi đám thư lại thì chần chừ lúng túng theo hệ thống quan lại.

Sau bữa ăn tối, mọi người ngồi quanh trong phòng khách. Ông Tô lại đề cập tới vấn đề tiếp đón người trong họ.

– Ðể cháu coi. Viên chức duy nhất cháu muốn gặp là Nghi thân vương, quan Tuần Vũ tại đây. Cháu quen biết ông ta từ Bắc Kinh. Cháu sẽ đi thăm ông ta ngày mai.

Bà Tô hỏi, “Cháu có chắc y phục của cháu sẵn sàng cho cuộc viếng thăm chưa?”

– Chỉ là một cuộc viếng thăm cá nhân thôi mà.

– Tuy thế dì nghĩ cháu phải mặc phẩm phục khi đến thăm ông ta tại nha môn.

– Cháu cũng nghĩ vậy. Không biết quần áo giặt lấy về chưa?

– Dì sợ rằng chưa lấy về đâu. Dì xin lỗi – dì không biết cháu đi thăm ông ta ngày mai. Ðể dì coi lại xem sao.

– Dì thấy không, thiếu Ðinh má thì cháu thực là lôi thôi.

Mẫu Ðơn vội hỏi, “Ðinh má đâu?”

– Bà ta trở về nông trại rồi. Bà ta muốn về hưu, bây giờ bà ta ở Hàng Châu.

– Bà ta không đi Bắc Kinh với chúng ta hay sao?

– Không. Bà ta đã phải săn sóc tôi bao nhiêu năm rồi. Tôi biếu bà ta ba trăm quan.

Bà Tô bỏ đi và Hải Ðường đi theo. Một lát hai người trở lại mang theo một chiếc áo choàng và một chiếc áo chẽn. Hải Ðường nói:

– Ðại ca, mặc thử coi. Mọi người muốn coi đại ca thế nào trong phẩm phục.

Mạnh Giao vui vẻ, “Ðấy, mọi người chăm sóc cho tôi chu đáo quá!”

Bà Tô coi lại chiếc áo choàng lụa và thấy rằng cần phải ủi. Bà ta nói, “Coi này. Thiếu một cái nút áo dưới nách. Tôi không nghĩ Ðinh má là một người nội trợ giỏi.”

– Không phải lỗi bà ta đâu. Cháu nhớ cháu mất cái nút áo ấy hồi ở Phúc Châu. Nhưng không sao, nếu mặc áo chẽn bên ngoài thì không ai thấy.

Hải Ðường phản đối, “Nếu quan Tuần Vũ bảo đại ca tự nhiên như ở nhà, và nếu đại ca cởi áo chẽn ra thì sao? Em có thể đính cái nút áo ấy ngay bây giờ. Một môn đệ thường phải mang quà mừng sư phụ. Ðể em làm việc này cho đại ca.”

Nàng đi mượn kim chỉ. Trong lúc mọi người tiếp tục nói chuyện, nàng ngồi ở trong phòng ăn, bên cạnh ngọn đèn và khâu chiếc nút áo. Trước hết nàng làm vải viền và cái nút cài thật là vừa vặn, rồi nàng đem chiếc áo đi ủi. Khoảng hai mươi phút sau, nàng làm xong và bước ra với mọi người.

– Ðây, sẵn sàng rồi.

Bà Tô nói với Mạnh Giao, “Mạnh Giao, việc này dạy con một bài học về cái ý nghĩ làm người độc thân và sống không có vợ trong nhà!”

Tất cả những gì một người con gái làm theo đúng bản năng là chọn một người bạn đường xứng ý. Y phục, sự chăm sóc nhan sắc, những bài học âm nhạc, và sự lựa chọn mọi hoạt động của người con gái đều có một mục đích, mục đích tìm cho mình một người chồng. Trong những vụ hôn nhân do cha mẹ sắp đặt, cái bản năng này vẫn tiếp tục một cách kiêu ngạo và không nản chí. Sự đam mê là biểu hiện của bản năng này, thường được coi là mù quáng, nhưng quả thực không phải như vậy. Một người con gái trưởng thành biết rất rõ phải làm gì khi yêu. Mẫu Ðơn cũng vậy.

Nàng không thể tự giải thích tại sao lòng cuồng nhiệt cho Tần Châu trở nên nguội lạnh, khi cuối cùng nàng nhận thức cái cảnh tuyệt vọng của mối tình ấy. Nàng chỉ biết chắc rằng cái ngày đi gặp Tần Châu, nàng dường như không quan tâm lắm như trước kia. Nàng không cảm thấy sự sung sướng say sưa dâng lên trong lòng, và mặt nàng bộc lộ thái độ ấy. Quả thực là trước khi rời Cao Vũ, ước muốn lớn nhất của nàng là gặp lại Tần Châu, ở bên chàng và bàn luận với chàng về tương lai của hai người. Nàng chỉ có một ý nghĩ: được thuộc về chàng hoàn toàn. Nàng đã viết cho chàng nàng sẵn sàng hy sinh tất cả, giải thoát khỏi mọi ràng buộc cho mục đích này. Nàng muốn cắt đứt với nhà họ Phí càng sớm càng tốt, để đến với chàng. Ðó là giấc mơ của nàng, và nàng biết đó cũng là giấc mơ của chàng. Nhưng trong vài tháng vừa qua, nhiều việc xảy ra đã làm vơi mối tình ấy, một mối tình bây giờ có nhiều ngập ngừng và hoài nghi. Những dự tính của nàng đã thay đổi.

Nàng thực tình ngạc nhiên thấy sự thay đổi khi nàng bước vào phòng khách của khách sạn, và trông thấy Tần Châu đang chờ đợi nàng với một nụ cười mong đợi, nhiệt tình và tràn đầy tình yêu. Ðây là cái khách sạn nơi hai người đã gặp gỡ nhiều lần. Nàng khẽ thì thầm:

– Ôi, Tần Châu!

Chàng cầm tay nàng và dẫn lên phòng riêng. Lúc đó còn sớm. Nàng đã nhắn lại cho em gái rằng nàng sẽ đến chơi với Bạch Huệ cả ngày, và có thể về nhà trễ. Hai người tình có cả một ngày cho riêng nhau. Cuối cùng cuộc gặp gỡ đã đến – cái giây phút mà cả hai người cùng cầu mong và chờ đợi với sự đắm say nồng nàn. Trong những lần trước, hai người thường ôm choàng lấy nhau một cách cuồng nhiệt. Lần này họ cũng hôn nhau – nhưng thiếu ngọn lửa đam mê và Tần Châu cảm nhận thấy thế.

Tần Châu nhìn nàng với cùng một sự tôn thờ, cùng một tình yêu và chiêm ngưỡng như trước. Ðấy quả là một phép lạ ở chàng. Buổi sáng chàng dạy rất sớm, cắm hoa vào bình; chàng đã nghĩ tới tất cả những việc mà hai người có thể làm, đã dự trù mọi chi tiết, để cho cuộc gặp gỡ được hoàn toàn. Nàng hỏi:

– Tại sao anh không tới Cửu Giang? Anh nhận được thư em không?

– Anh nhận được. Lúc đó anh bị bệnh và không tới được. Ðúng ra anh bị bệnh tới một tháng. Nhưng bây giờ anh khoẻ lại rồi.

Nàng nhìn chàng trìu mến, và thấy chàng gầy hơn trước nhiều. Trên mặt chàng có những nếp nhăn mà trước kia nàng không thấy. Dĩ nhiên nàng biết đó chỉ là tạm thời, nhưng rất buồn phải trông thấy những thay đổi ấy.

Chàng nói với nàng, “Anh có một đề nghị này nhưng không biết em có chịu không. Chúng ta hãy du ngoạn tới động Quan Âm, trừ phi em muốn ở lại trong khách sạn để nói chuyện thay vì hấp tấp đó đây?”

Nàng trả lời mau lẹ bằng cái giọng vàng trẻ trung, “Nhất định là em thích xem động Quan Âm rồi. Em chưa tới đó bao giờ.”

– Em không sợ mệt sao?

Nàng mỉm cười, “Không đâu, Tần Châu.”

– Vậy thì chúng ta mau khởi hành ngay. Anh sẽ ra ngoài thuê xe ngựa.

Chàng chợt ngẩng lên nhìn nàng và buột miệng kêu lên, “Trời ơi, em đẹp quá! Phải đi bộ một quãng đấy. Em có chắc giầy của em đi bộ được không?”

Hôm nay nàng mặc váy và chiếc áo chẽn màu ngà – đây là loại quần áo gần với tang phục màu trắng nhất mà không làm người ta để ý. Bộ đồ bằng vải rất tốt, làm nổi bật cái eo nhỏ của nàng. Nàng trả lời:

– Em đi được mà.

Nàng bắt đầu vuốt lại tóc và nhìn vào trong gương. Nàng hỏi xem chàng có đồng ý không:

– Thế này được không?

– Em đẹp hoàn toàn.

Nhưng nàng bỗng không vừa ý và bắt đầu sửa lại và kéo váy cao hơn một chút, đồng thời thắt eo chặt thêm một nút nữa. Nàng nói:

– Lại đây giúp em.

Chàng lại gần và cài nút cho nàng. Tuy mặc áo chẽn, nhưng cái eo quá nhỏ của nàng làm nổi bật đôi mông rắn chắc.

– Em sửa soạn đi và xuống chờ anh bên dưới. Anh sẽ đi thuê xe ngựa một ngày.

Tần Châu trở lại với chiếc xe ngựa. Mẫu Ðơn đang bước lên xe thì nàng chợt nhớ để quên cái ví, và chạy lên lầu. Trong lúc Tần Châu chờ đợi thì người thư ký khách sạn cho biết chàng có giấy báo phải ra lĩnh thư bảo đảm tại bưu điện. Chàng liền dùng xe ngựa ra nhà bưu điện để lấy thư. Khi tới nơi thì bưu điện chưa mở cửa. Khi chàng trở lại, Mẫu Ðơn đang chờ chàng trên lề đường.

– Lên xe đi.

Tần Châu nhảy xuống giúp nàng lên xe. Chàng không thấy nụ cười của người yêu, nhưng nghĩ rằng tại chàng ra nhà bưu điện mà không báo cho nàng biết và bắt nàng phải đứng chờ. Khi hai người ngồi bên nhau, chàng nói:

– Cuối cùng lại gặp nhau.

Nhưng chàng ngạc nhiên không thấy nụ cười dịu dàng trên môi nàng. Tinh thần chìm xuống, chàng hỏi:

– Có chuyện gì thế, Mẫu Ðơn? Em không khoẻ phải không?

– Chẳng có chuyện gì cả.

Bàn tay chàng ấn mạnh lên đùi nàng. Nàng không hất tay chàng ra, nhưng cũng không nồng nhiệt như mọi khi. Nàng ngửa người về phía sau, đầu lắc lư theo chuyển động của xe, nhưng giữ im lặng. Tâm trí nàng là sự xáo động của xung đột và bối rối. Trong đáy lòng, nàng vô cùng quan tâm cho chàng. Nhưng có một cái gì ngăn cản. Những người tin tưởng vào ảnh hưởng thần bí thì nghĩ rằng hai người sinh ra dưới những ngôi sao độc ác, một sức mạnh siêu nhiên đang phân ly hai người. Sau này Tần Châu hỏi thày bói tại sao chàng mất người yêu một cách không giải thích được, thì thày bói nói có người dùng thần chú rắc bùa mê lên nàng, và khuyên không nên trách nàng vì những gì đã xảy ra; nàng vẫn yêu chàng và sẽ trở lại với chàng.

Những ngày tháng Chín tại Hàng Châu thực là đẹp. Xe ngựa của hai người chạy ra khỏi cái công trường đông người, và rong ruổi dọc theo bờ Tây Hồ tươi mát u nhã, qua Bạch Ðê, con đê ngăn nước giữa hồ lớn và Nội Hồ, rồi tiếp tục đi tới chân núi. Trên suốt con đường, sườn núi lấp lánh lá đỏ lá tím và tất cả những màu sắc của mùa thu. Nhưng Mẫu Ðơn không còn lòng dạ nào để ý tới cảnh. Hai người nắm tay nhau im lặng. Cuối cùng chàng lên tiếng:

– Thế là em đã rời bỏ nhà mẹ chồng và bây giờ tự do rồi phải không?

Nàng nói một cách vắn tắt những lời rất thành thực, “Em làm thế là vì anh.”

– Em không có vẻ hân hoan. Ðáng lẽ chúng ta phải sung sướng. Tại sao?

– Em không biết.

– Anh nhận được thư em. Thực là một hoàn cảnh tiến thối lưỡng nan cho anh. Em đã biết gia đình vợ anh và gia đình anh liên kết với nhau bằng kinh doanh. Cha nàng và cha anh cùng nhau thành lập ngân hàng địa phương. Ðó là lý do tại sao hôn nhân của anh đã được sắp đặt. Anh cho em biết anh định làm gì. Anh sẽ tự thuyên chuyển về chi nhánh Hàng Châu và sống tại đây. Anh biết anh có thể xếp đặt như thế. Ñt nhất, chúng ta sẽ dễ dàng gặp nhau thường hơn. Và nếu em sẵn sàng chờ đợi vài năm nữa, sự việc có thể thay đổi. Ai biết được? Anh cảm thấy bất công khi yêu cầu em như thế… anh biết…

Nàng trông có vẻ vô cùng buồn bã và nói, “Vô ích thôi.” Giọng của nàng chứng tỏ rằng nàng không chấp thuận cái ý kiến sống như là người tình của chàng, mặc dù có thể chỉ là một thời gian ngắn. “Em cũng muốn nói cho anh biết – em đang dự định xa Hàng Châu và đi Bắc Kinh với em gái em. Anh họ em, quan Hàn Lâm, hiện về thăm nhà, đã khuyến dụ cha mẹ em cho chúng em đi thăm kinh đô.”

– Chỉ thăm viếng thôi? Bao lâu? Anh sẵn sàng chờ đợi.

– Em không biết.

Từ cách nàng bóp chặt tay chàng và giữ lại, chàng biết nàng vẫn yêu chàng lắm; nhưng chàng linh cảm rằng mối thâm tình của Mẫu Ðơn đối với chàng đã thay đổi, rằng một sức mạnh nào đó đang đẩy họ xa nhau. Cái cảm giác bối rối đè nặng trái tim chàng cho tới lúc xe ngựa đi lên núi.

Ðây là một quãng đường dài. Cuối cùng xe ngựa dừng lại tại một ngôi đền. Sau một bữa trưa nhẹ chỉ có mì và đậu, hai người đi ra ngoài nghỉ ngơi. Chàng cho Mẫu Ðơn xem giấy báo của nhà bưu điện và nói, “Anh không biết thư gì? Chúng ta phải trở về thành phố trước giờ bưu điện đóng cửa.”

– Chắc là quan trọng lắm. Chúng ta về kịp không? Lá thư từ đâu gửi đến?

– Không biết. Bưu điện đóng cửa lúc năm giờ. Anh chắc chúng ta về kịp.

Mặt trời chiếu rực rỡ. Ngày bỗng nhiên rất nóng, như thường lệ vào lúc đầu thu. Chàng tìm một chiếc ghế đá mát mẻ bên dưới rặng cây và gọi, “Lại ngồi đây.”

Dĩ nhiên nàng muốn ngồi xuống. Hai người cần nghỉ ngơi đôi chút sau bữa ăn trưa trước khi vào động. Nhưng nàng lắc đầu, không lại gần chàng, và lặng lẽ bỏ đi một mình. Có phải tương lai của họ đã làm nàng buồn phiền như thế? Chàng chỉ có thể trông thấy chân nàng bên dưới chiếc xe ngựa. Nàng đứng yên lặng một lúc lâu. Hiển nhiên nàng đang tựa vào chiếc xe, mải mê suy nghĩ. Khi nàng quay lại, chàng biết nàng đã khóc. Chàng giữ im lặng và không hỏi gì.

Người hướng dẫn viên lại gần họ, mang theo mấy chiếc gậy. Tần Châu hỏi, “Chúng ta vào bây giờ chưa?” Chàng đã hỏi người lái xe ngựa để biết chắc họ có thể về kịp trước khi bưu điện đóng cửa.

Mọi người đi xuống núi dọc theo con đường đất đỏ, có những bụi cỏ nhỏ và đá lộ thiên. Mỗi người chống một chiếc gậy. Tại cửa hang, họ dừng lại để thở. Người hướng dẫn cầm sẵn một cây đuốc.

Cái lối vào nhỏ hẹp gây ấn tượng giả tạo; cái động rất sâu, và uốn những khúc dài. Khi họ bước vào, những tiếng vù vù của những vật đen vỗ cánh bay lên, kèm theo những tiếng chít chít nhức óc, bay ùa ra cửa động. Từng đàn dơi hàng trăm, có thể hàng ngàn con. Bên trong động tối om. Người hướng dẫn đốt đuốc lên, và đưa cho Tần Châu một cây. Tất cả chậm chạp bước xuống những bậc dốc. Một lúc sau, mặt đất bằng phẳng. Một sợi giây thừng căng ra cho du khách nắm tay đi theo con đường gồ ghề quanh co. Thỉnh thoảng, họ có thể trông thấy ánh sáng của một toán du khách khác cách ba mươi thước bên dưới, sáng lên qua những lỗ nhọn của các hình thể đá. Lối đi được xây bên vách đá nên nước rỉ ra ướt nhẹp, và không khí trong động khá lạnh. Họ tới một căn buồng có những cột trụ trạm trổ. Người hướng dẫn dùng cây đuốc chỉ vào một hình thể đá trông giống như bức tượng Quan Âm quen thuộc, hai tay chắp lại; tất cả tượng đá nằm trên một khối đá, hình thể giống như một bông hoa sen.

– Em không muốn đi xa hơn nữa, phải không?

Tần Châu hỏi. Giọng chàng vang lên trong bóng tối.

– Em nghĩ không nên, nếu chúng ta muốn đến bưu điện kịp giờ.

Chàng ôm chặt eo nàng, và họ quay đi lên, trở lại cửa động. Ðôi khi chàng dẫn nàng và đôi khi nàng đi trước; cả hai thận trọng trèo lên cái lối đi nguy hiểm. Hai tay họ không bao giờ rời nhau, dù một giây. Chàng bỗng vô cùng hân hoan.

Khoảng hơn mười phút, hai người đã trông thấy ánh sáng của cửa động. Cuối cùng hai người đứng bên ngoài, tay nàng níu cánh tay chàng. Trong một lúc, hai người dường như là những người tình cũ.

Trên đường về, Tần Châu bảo người đánh xe chạy thật nhanh. Mẫu Ðơn uể oải ngả người xuống ghế ngồi, hai chân gác lên, không để ý tới kiểu váy của nàng. Chàng đặt đầu nàng tựa vào vai chàng, cảm thấy mùi hương của da và tóc nàng, cũng như sự ấm áp của thân thể nàng. Một lần nữa nàng lại rút lui vào thái độ im lặng. Chàng không biết và không muốn hỏi nàng đang suy nghĩ gì. Ðôi khi nàng ngồi thẳng lên một lát, hoặc đổi chỗ ngồi khi chiếc xe lắc lư. Chàng muốn hôn nàng, nhưng nàng tránh quay mặt về phía chàng. Trước kia nàng chưa bao giờ lạnh lùng và tránh né như thế.

Khi về tới thành phố, thoạt đầu chàng định đưa nàng về khách sạn trước, rồi một mình đi lấy thư. Nhưng họ chỉ còn mười lăm phút trước khi bưu điện đóng cửa.

– Chúng ta ra bưu điện trước, được không?

Nàng dường như mệt nhoài, nhưng vẫn nói, “Có lẽ thế vậy.” Tâm trí nàng đang mải suy nghĩ.

Hai người, tay nắm tay, cùng đi vào. Chàng đưa giấy báo cho người thư ký tại cửa sổ. Người đó hoặc là đãng trí hoặc là đang muốn về nhà, cầm lấy tờ giấy báo và biến vào một phòng khác, để họ phải chờ đợi rất lâu. Cuối cùng lá thư được trao cho chàng.

– Cái gì thế?

Nàng hỏi bằng một giọng rất lo lắng trong lúc chàng bóc và đọc thư.

– À, thư của sở anh. Họ muốn anh trở về ngày thứ sáu, tức là ba ngày nữa. Ngày mốt anh phải lên đường.

Hiển nhiên chàng rất bực mình với lá thư. Chàng đã khó khăn lắm mới xin nghỉ phép được một tuần lễ, những bây giờ lại bị cắt ngắn. Chàng phải quay về Tô Châu. Khi hai người ngồi trên xe, chàng nói:

– Như vậy có nghĩa là ngày mai là ngày cuối cùng của chúng ta.

Trong phòng khách sạn, nàng im lặng. Nàng phải cho chàng biết quyết định của nàng. Nhưng thực là khó nói. Nàng tắm rất lâu.

Cuối cùng nàng bước ra, trần truồng và nhào người lên giường nơi chàng đang nằm. Mỗi khi chàng trông thấy tấm thân ngọc ngà của nàng, ngực đầy đặn, hình dáng mảnh mai, chàng lại mê mẩn trước cái thân hình hoàn hảo ấy. Và nàng sẵn sàng dâng hiến cho chàng tất cả. Tuy thế không có sự nồng nhiệt trên môi nàng. Dường như nàng chủ tâm tới với chàng để vĩnh biệt cuộc tình.

Hai người nằm ôm chặt nhau. Tay chàng thong thả và âu yến vuốt ve khắp thân thể nàng, và nàng đầu hàng dâng hiến như thể toàn thân nàng tan thành một lớp sương mờ của dục vọng.

Chàng đè mạnh môi lên miệng nàng và kêu lên, “Ôi, Mẫu Ðơn, em không bao giờ biết được anh yêu em nhiều đến thế nào.” Nàng khẽ cắn môi chàng, nhưng không nói một lời. Cuối cùng nàng giục:

– Thôi, yêu em đi.

– Khi nào chúng ta gặp lại nhau?

– Em thực tình không biết.

Theo luật của tình yêu thì hai ngưòi tình phải tự quên mình hoàn toàn, và quên hết mọi việc khác trong lúc hưởng dục tình. Chàng không nghĩ tới một việc nào khác, nhưng tất cả thái độ của nàng từ buổi sáng thực là kỳ lạ. Cái ý tưởng ấy đè nặng lòng chàng và chàng không thể làm được việc gì.

Hai người nằm đó trong vòng tay của nhau, giống như một ngọn lửa âm ỉ, không thể bùng cháy thành một ngọn lửa mê ly ngây ngất, nhưng cũng không dập tắt được. Dường như tất cả những cảm giác thể xác ở đó nhưng trí óc thì không, mặc dù chân họ quấn lấy nhau. Rồi nàng cuồng nhiệt ôm chàng, phủ người chàng bằng những nụ hôn đắm đuối, như thể nàng dâng cho chàng một tặng phẩm tình yêu để chàng không bao giờ quên cái giờ phút này, hoặc chỉ là vì chính nàng đang chìm trong một đợt sóng ham muốn không kiềm chế nổi. Nàng muốn chàng phải ghi nhớ cái giây phút này với mọi hình dáng hấp dẫn của thân thể nàng cũng như mọi kiểu ôm ấp của nàng. Nếu chàng có thể tin vào sự huyền bí, thì chàng sẽ tin rằng một ảnh hưởng ma quái đang cố gắng phân ly họ.

Nàng rền rĩ liên tiếp, “Tần Châu, Tần Châu…” Ðây là một lời mời chàng hãy hưởng sự hợp nhất của hai người, hãy dày vò nàng bằng những cái ôm cuồng dại mà nàng đã biết rõ và rất yêu thích.

Bỗng nhiên tất cả chấm dứt. Chàng quên không biết họ chia tay thế nào. Chàng ngồi dậy và đi tắm rửa, và trở lại để thấy nàng nằm vùi đầu vào đống gối. Chàng lại gần và dịu dàng vuốt ve nàng. Nàng nhắm mắt lại, và thở đều đặn, như thể đang ngủ. Nhưng lông mi của nàng động đậy. Một giọt lệ chảy xuống má.

Chàng cúi xuống hôn nàng. Trái tim chàng sẵn sàng tan vỡ. Nàng mở mắt và bắt đầu chớp, vẫn còn mải suy nghĩ. Nàng muốn nói một điều gì, nhưng nàng sẽ nói thế nào? Nàng biết rằng nàng đã quyết định, đã quyết tâm bỏ chàng. Việc ấy xé nát tim nàng thành từng mảnh. Tuy thế chàng đã cho biết chàng không bao giờ nghĩ đến ly dị. Nàng tự hỏi nàng sẽ tiếp tục thế nào với chàng, gặp chàng như một tình nhân, hàng tháng, hàng năm? Con đường của nàng đã rõ; không còn một lựa chọn khác.

Sự im lặng và nước mắt của nàng làm chàng khó hiểu. Nàng chính là toàn thể cuộc đời của chàng. Chàng đã nói với nàng nhiều lần, và bây giờ cũng vẫn cảm thấy như thế, rằng nàng là cuộc đời chàng, linh hồn chàng. Dù nàng ở bên chàng hay xa cách chàng, nàng lúc nào cũng là niềm khao khát và sự thỏa mãn của linh hồn chàng. Chỉ có một người, một Mẫu Ðơn, trên đời này. Không một ai khác.

Bây giờ nàng có vẻ mệt nhoài và buồn ngủ. Trong phòng nóng đến ngạt thở. Chàng cầm một chiếc quạt và dịu dàng quạt mát cho nàng, hết bên phải đến bên trái, như một người mẹ quạt cho con, để nàng có thể hưởng một giấc ngủ bình yên mát mẻ, trong lúc chàng thưởng thức tấm thân ngà của nàng nằm xoải ra trước mắt. Chàng cầm một góc vải giường lên và khẽ phủ lên người nàng, để nàng không bị cảm lạnh.

Chàng cứ như thế khoảng một nửa giờ, ngồi cạnh giường, quạt cho nàng, ngắm nàng, bảo vệ nàng như một người mẹ che chở đứa con đang ngủ, cùng với tình yêu vô cùng tận. Nàng chợt mở mắt, nằm quay lại, hướng về phía chàng. Nàng hỏi:

– Tại sao anh làm thế này?

– Vì anh yêu em.

– Anh không ngủ ư?

– Không. Chỉ nhìn em cũng đủ cho anh sung sướng rồi.

Nàng bỗng ngồi dậy. Chàng ra bàn giấy và rút một điếu thuốc lá, đốt lên và đưa cho nàng. Nàng cầm lấy và hít một hơi dài, giống như một tiếng thở dài đau đớn. Lo lắng nhìn chàng, nàng nói:

– Như vậy ngày mai là ngày cuối cùng của chúng ta?

– Dường như vậy. Khi nào em có thể đến gặp anh nữa?

– Bất cứ lúc nào em rảnh.

– Tối mai được không? Chúng ta hãy ăn tối với nhau.

– Ðược. Em sẽ báo cho nhà biết, bằng cách này hay bằng cách khác.

– Tại sao em không đến vào lúc xế chiều để chúng ta có thể nói chuyện?

– Ðể em coi xem có được không.

Nàng nhỏm dậy, ngồi vào bàn giấy, và bắt đầu viết. Khi chàng lại gần, nàng lấy tay che đi. Chàng khó hiểu và để nàng ngồi một mình. Rồi nàng bước lại gần kiếng và bắt đầu chải tóc. Nàng trông đẹp đến nỗi Tần Châu thấy tim đau nhói.

Nàng nói, “Em cảm thấy em muốn ra khỏi đây một mình.” Nàng mỉm cười và trao cho chàng lá thư trong một phong bì và nói tiếp, “Em đi rồi hãy đọc thư này.”

Chàng rất đỗi ngạc nhiên, và quát lên, “Cái gì thế? Hãy cho anh biết.”

“Xin anh đọc đi.” Nàng nói với một nụ cười làm mềm lòng chàng và bước ra ngoài.

Chàng mở lá thư và đọc:

“Hãy tha thứ cho em, Tần Châu. Em không thể tự mình nói với anh được. Em sẽ đi Bắc Kinh. Em sẽ xa anh. Ðùa với nhau không có ích gì.

Em đã yêu anh điên cuồng và mù quáng, như em chưa yêu ai như thế. Nhưng lần này chúng ta phải xa nhau. Xin anh cố quên em, con nhỏ Mẫu Ðơn của anh.

Em không thể nói dối anh. Em yêu một người khác. Hãy tha thứ cho em. Em không còn dâng cho anh một tình yêu trọn vẹn mà từ trước em vẫn dành cho anh.

Em buồn tiếc vô cùng. Em biết anh cũng cảm như thế.

Ngày mai em sẽ đến.

Khóc biệt anh,

Mẫu Ðơn”

Chàng bật lên một tiếng chửi thề dữ dằn, và vò nát lá thư trong nắm tay mạnh mẽ của chàng.

Chàng cảm thấy tinh thần đảo lộn, như một người đã hoàn toàn mất hết phương hướng của cuộc đời. Một cái gì rất tốt, một cái gì rất đẹp đã bị phá hủy và chỉ để lại một sự đen tối sâu không đáy. Chàng không thể tin được. Chàng biết nàng yêu chàng. Nếu tình yêu của hai người không độc đáo, chân thực, tốt đẹp như thế thì chàng có thể chấp nhận được. Ôi, không phải là Mẫu Ðơn mà chàng đã yêu say đắm, đã trao đổi tình cảm và lòng yêu nhau lâu dài, kể từ khi hai người tìm thấy nhau trong cái cõi đời mênh mông này. Chỉ một giờ trước họ vẫn còn đi bên nhau, tay trong tay.

Chàng đọc đi đọc lại lá thư của Mẫu Ðơn, vuốt cho thẳng tờ giấy bị vò nhàu. Rõ ràng là nàng định nói chuyện này với chàng suốt ngày hôm nay. Như vậy là đúng rồi. Mẫu Ðơn đã thay lòng đổi dạ.

Chàng sẵn sàng chiến đấu và vượt qua mọi trở ngại, để cuối cùng họ sẽ là của nhau hoàn toàn. Nhưng khi Mẫu Ðơn là nguyên nhân của sự tan vỡ này, thì chẳng còn lại gì để mà tức giận. Chàng cảm thấy nhẹ tênh và lảo đảo, và không còn một mục đích nào nữa, như thể chàng bị đẩy trở lại vào cõi thần bí, rơi xuống, rơi xuống chỗ tối tăm là nơi khởi đầu của nhân thế. Chàng bị tước lột không chống cự được nữa.

Bỗng chàng bật một que diêm và đốt lá thư đi. Chàng khoái trá nhìn ngọn lửa liếm dần hết lá thư. Một tia khói đen mỏng cuộn bay lên, tỏa ra một mùi cay và nóng. Chàng cũng đem theo một số thư mới nhất của nàng, như chàng vẫn làm khi đi du lịch để có cái cảm tưởng được gần nàng, kể cả lá thư nàng viết mời chàng tới Cửu Giang. Chàng đốt hết những thư này và liệng cả vào một giỏ sắt. Rồi chàng nhớ lại chàng đọc dở dang một chuyện tình dài rất mê hoặc. Cuốn truyện đó bây giờ cũng không còn một ý nghĩa gì, và chàng liệng luôn vào đống lửa. Cuốn truyện hơi khó cháy; chàng ngồi xuống nền nhà, xé từng trang một, rồi cho vào lửa cho tới lúc cái giỏ sắt đen xì và nóng hổi, và những tàn than đen bay lên không. Căn phòng ngột ngạt khói. Chàng bị ngộp thở và phải mở cửa sổ. Một nhân viên khách sạn trông thấy khói và báo cho văn phòng. Một vài người chạy lại đứng nhìn từ hoa viên, nhưng chàng đứng trước cửa sổ và bảo họ đi chỗ khác, và cho họ biết không có chuyện gì phải lo ngại cả. Rồi chàng cẩn thẩn rửa mặt rửa tay, và đi ra ngoài.

Ðã quá bữa ăn tối lâu rồi, và các cửa tiệm đã đóng cửa; chỉ một vài quán nhỏ và khách sạn còn đèn sáng. Chàng bỗng cảm thấy lâng lâng. Tiếng rao hàng của người bán hàng rong, làn khói đen của cái đèn trên quầy bán đồ ăn, khuôn mặt của mọi người chung quanh – tất cả có một cái bề ngoài giả tạo. Thời gian dường như ngừng lại. Thực là kỳ lạ trong giữa những thứ này chàng vẫn nhớ được một điều: chàng phải trở về Tô Châu. Chàng ao ước trở lại bàn giấy cũ của chàng để chàng có thể làm chủ được mình.

Quay trở lại khách sạn, những cơn đau nhè nhẹ từ trong bụng đã làm chàng bệnh một thời gian, lại bắt đầu đau lại. Chàng cảm thấy hơi sốt. Không một bác sĩ nào có thể bảo cho chàng biết tại sao chàng đau như thế. Dẫu sao cũng không đau lắm và không đáng ngại.

*

Vào lúc ba giờ chiều ngày hôm sau, chàng nghe thấy tiếng gõ cửa.

– Ai đó?

– Mẫu Ðơn đây.

Chàng bước ra cửa. Hai người nhìn nhau một giây, không mỉm cười. Cuối cùng chàng nói, “Vào đI.”

Nàng bước vào, trong cách đi kéo lê chân thông thường của nàng, và quan sát căn phòng. Bất thình lình cơn giận dữ của chàng trở lại. Nàng là Mẫu Ðơn, và thế là đủ rồi. Chàng bắt đầu cười một cách hối tiếc. Nàng lên tiếng trước:

– Em tới đúng như đã hẹn. Nhưng đến năm giờ em có hẹn khác.

– Nhưng chúng ta sẽ ăn tối với nhau mà.

– Em sẽ trở lại. Mấy giờ?

– Tám giờ.

Mắt nàng nhìn chàng chăm chú. Tất cả tình yêu của chàng, sự cuồng nhiệt đối với nàng trở lại. Không, chàng không thể tức giận nàng chỉ vì nàng là Mẫu Ðơn. Chàng nói:

– Ðược rồi, Mẫu Ðơn. Anh chấp nhận điều kiện của em. Và anh cám ơn em vì hạnh phúc em đã cho anh trong những năm qua.

Mẫu Ðơn trả lời, giọng nàng nặng nề, “Tần Châu, tất cả những gì em nói với anh trong thư đều là sự thực. Em hy vọng chúng ta sẽ vẫn là bạn với nhau.”

– Nhưng chuyện gì đã xảy ra? Anh có xúc phạm em không? Anh có làm điều gì đáng lẽ anh không nên làm không? Anh có thay đổi không?

– Không.

– Thế thì tại sao? Tại sao? Tại sao? Em đã thay đổi. Tại Sao?

– Em không biết.

Nàng lại im lặng, và theo thói quen, nàng nằm xoài ra giường và không nói một lời. Chàng bước lại và định hôn nàng.

Nàng đặt ngón tay lên miệng chàng và nói, “Không.”

– Em hết yêu anh rồi ư?

Nàng không trả lời ngay. Nhưng rồi nàng nói, chậm rãi và rõ ràng, “Tất cả hoặc không có gì cả.”

Lòng tự ái của chàng bị thương tổn, và chàng không đòi hỏi nữa. Chàng ao ước biết nàng đang yêu ai, nhưng tự không cho phép hỏi.

– Ðêm qua em làm gì?

-À, em đi chơi với mấy người bạn gái. Tụi em tới hội quán hải quân bên hồ. Mãi quá một giờ rưỡi sáng em mới về nhà. Tụi em chèo thuyền. Ðêm đẹp lắm.

Khi nàng nói đến những chuyện không liên quan tới nhau, hai người có vẻ là bạn tốt, như trước kia. Chàng biết nàng có vài người bạn gái, nhưng chàng vẫn không tin nàng nói thực.

– Em sẽ gặp ai vào lúc năm giờ chiều nay?

– Bạch Huệ và Như Thủy.

– ồ, Bạch Huệ! Bao giờ cũng Bạch Huệ!

Nàng nửa như ngồi dậy. “Anh không tin em sao? Chị ấy muốn mời em tới nhà chị ấy ở Ðông Lục.”

Trong những năm trước khi nàng lấy chồng, hai người thường đi xem hát vào buổi tối, với Bạch Huệ làm người bao che. Chàng nhớ lại những đêm điên cuồng của hai người sống ngoài trời tại Ðông Lục, khi Mẫu Ðơn dâng hiến cho chàng một cách man dại. Thực là không thể quên được, cái cực điểm của tình yêu giữa hai người. Chàng vẫn hy vọng tình yêu của Mẫu Ðơn dành cho chàng sẽ không hoàn toàn biến mất.

Trời vẫn nóng, và nàng cởi những khuy áo trên. Chàng hiểu lầm, và nghĩ đó là một sự công khai mời gọi. Chàng lại gần và muốn hôn nàng.

Nhưng nàng nhìn vào mắt chàng và nói, “Em đã bảo anh. Em không thể.”

Chàng cảm thấy có ai vả mạnh vào miệng chàng. “Như vậy là giữa chúng ta đã chấm dứt.”

Nàng im lặng. Chàng thấy rõ ràng là đã chấm dứt. Có cái gì gẫy đổ bên trong chàng. Chàng ấn tay vào bụng nơi chàng cảm thấy đau. Một cơn đau quặn thoáng qua, hiện lên mặt chàng.

Nàng kinh hoàng hỏi, “Anh sao thế?”

– Không sao cả.

Chàng không cảm thấy giận dữ, không điên cuồng, mà chỉ là một sự trống rỗng lạnh lẽo bên trong. Chàng rút ví, và lấy ra một tấm ảnh của nàng mà chàng thường mang theo mỗi khi đi xa nhà, và trả lại nàng. Kế đó chàng lấy ra một lọn tóc mà nàng đã tặng chàng, bọc trong một mảnh giấy. Chàng nói bằng một giọng lạnh lùng, không cảm xúc:

– Ðây.

Nàng cầm lấy và lạnh lùng liếc nhìn chàng.

– Anh cũng đã đốt những lá thư của em, những lá thư cuối cùng em viết cho anh.

Mắt nàng hiện một vẻ kinh ngạc đau đớn. Nàng trách, “Anh đốt rồi ư? Sao anh có thể làm thế?”

Chàng trả lời bằng một giọng kiềm chế, “Tại sao không?”

– Anh sẽ không gặp em nữa khi em trở về hay sao?

– Không. Gặp để làm gì?

Nàng sửng sốt đến im lặng. Một lát sau, nàng nói mà không nhìn chàng, “Em nghĩ rằng, ngay cả khi chúng ta không còn yêu nhau nữa, anh vẫn có thể cho em một tình bạn trong sạch và vô tư.”

Chàng nổi đoá. “Có khi nào tình bạn của chúng ta không trong sạch và vô tư? Sao em có thể nói như thế? Anh không biết nghĩ thế nào nữa. Giấc mộng của chúng ta tan biến rồi. Em đã hủy hoại nó. Làm sao một mối tình như của chúng ta có thể chết một cách cẩu thả dễ dàng như thế? Sao em có thể? Anh tin rằng em không có khả năng có một tình yêu lớn. Anh nghĩ rằng em chỉ là một kẻ lẳng lơ ưa ve vãn.”

Nàng phản kháng, một cách ngọt ngào, “Không, em không phải là một con người lẳng lơ. Hãy tin em.”

– Vậy thì cho anh biết tại sao?

– Em không giải thích được. Ðừng bắt buộc em. Em không biết. Xin anh tin rằng em không nói dối anh, rằng em đã từng yêu anh.

– Làm sao anh có thể tin em được nữa! Anh không còn tin em nữa.

Giọng chàng căng thẳng và chói tai. Ðiều đó làm nàng đau lòng. Mắt nàng mờ lệ và quay đi chỗ khác. Chàng cố dịu giọng:

– Tối nay em có đến nữa không?

– Dĩ nhiên là em đến. Anh chẳng hiểu em gì cả.

– Có thể anh không hiểu em. Nhưng không nên nói về tình yêu nữa. Ngày mai anh sẽ dậy sớm và trở về Tô Châu… Ôi, em, Mẫu Ðơn đáng yêu, điên rồ và làm anh buồn phiền.

Sau đó giọng chàng trở nên bình thường và thân mật như trước. Chàng nói dịu dàng, như nói với chính mình, mà không trách móc, không ác ý. “Anh mất tất cả. Một cái gì trong anh đã chết. Em đã giết anh, mặc dầu anh dường như vẫn còn sống.”

Nàng gần như làm một nửa cử chỉ giải hoà, muốn tặng cho chàng một cái hôn, nhưng chàng giả vờ như không nhìn thấy. Chàng đốt một điếu thuốc, rít mấy hơi rồi mỉm cười với nàng, nhưng đó là một nụ cười lạnh lùng.

Nàng đứng dậy và bước vào phòng tắm để sửa soạn. Một lát sau nàng bước ra, ném một chiếc khăn tay hồng cho chàng, và nói, “Ðây.”

Chàng nhớ lại chàng đã xin nàng. Ðó là một vật kỷ niệm cổ truyền giữa hai người tình.

– Không lấy nữa. Nếu em không còn yêu anh.

Chàng để mặc chiếc khăn tay hồng trên giường, không sờ tới. Nàng nhặt ví tay, cắn môi dưới và uể oải bước đi.

Khi Mẫu Ðơn đã đi rồi, lòng chàng đầy giận dữ chính chàng và giận dữ Mẫu Ðơn. Rồi lòng hối hận tiếp theo sự tức giận, và chàng xấu hổ đã nói với nàng một cách thô bạo như thế. Chàng thấy chàng chưa chấm dứt với nàng, và chàng là người vô tình. Cái hình ảnh nàng cắn môi dưới khi nàng bỏ ra đi làm chàng đau đớn. Tình yêu của chàng không chết dễ dàng như chàng giả bộ. Cả người chàng gục xuống một chiếc ghế, và lòng chàng hoàn toàn tan nát. Một cơn xúc động dâng lên, lan tràn khắp cơ thể chàng. Ngay sau đó, chàng chán nản tính khí thất thường và sự cứng rắn của nàng, và sự yếu đuối của chính chàng, và tất cả.

Khi nàng bước vào khách sạn đêm hôm đó, chàng trông thấy hình ảnh trắng trẻo của nàng len lỏi qua căn phòng đông người, trái tim chàng bắt đầu đập hỗn loạn. Chàng đứng ngay dậy chào đón, và dẫn nàng vào bàn. Nàng ngồi xuống, vuốt thẳng mấy lọn tóc buông xõa xuống, có vẻ bình tĩnh và im lặng, như thể nàng sẵn sàng lấy đi bất cứ cái gì của chàng, như thể nàng mong đợi chàng nói điều gì gay gắt hoặc hằn học, hoặc lạnh lùng thờ ơ. Nàng liếc nhanh chàng. Ðấy là một cái nhìn không phải là tức giận, mà là trách móc.

Chàng nói hơi trang trọng. “Cám ơn em đã đến.” Lòng kiêu hãnh không cho chàng bầy tỏ sự bất mãn cũng như sự hối hận. Những gì chàng muốn nói thì đã nói hết buổi chiều rồi.

Người hầu bàn già và hói đầu đem thực đơn tới. Chàng hỏi nàng muốn ăn gì. Cả hai đều không có tâm trạng dự một bữa tiệc chia tay. Nàng chọn món thịt trừu nướng với hành và trái tắc, và một đĩa đậu hũ chiên ròn. Chàng gọi một nửa chai rượu Thiệu Hưng, bởi vì chàng biết nàng thích uống đôi chút trong bữa ăn tối, và thêm một đĩa ngêu. Nàng mỉm cười nói:

– Anh quả thực thích cái món ấy.

Chàng trả lời với cùng một nụ cười. “Và anh biết em không thích.”

– Em không bao giờ ăn ngêu sò.

Chàng thò tay qua bàn và nắm tay nàng. Nàng ngẩng lên với một nụ cười và hai người lại là bạn với nhau. Chàng hỏi:

– Em đã tha thứ cho anh?

– Tha thứ cái gì?

– Vì nói với em như thế hồi chiều. Chúng ta là bạn chứ?

– Dĩ nhiên thế rồi. Ðâu có vô lý như anh.

Nàng đeo dây chuyền pha lê lấp lánh trong ánh sáng mờ. Một lần nữa chàng cảm thấy hãnh diện vì nàng, như chàng vẫn thường hãnh diện, biết rằng những người khác trong phòng và ngay cả những người bồi cũng chiêm ngưỡng sắc đẹp của nàng, và thèm thuồng sự may mắn của chàng vì đã có được cái nhan sắc trẻ trung và quyến rũ như thế. Ngay cả người bồi già hói đầu cũng tìm cơ hội nói vài câu tử tế khi lão bưng món thịt nướng ra.

Lão giơ tay và nói, “Tôi chắc cô thích món này. Ở đây chúng tôi làm món này một cách tuyệt hảo. Không ai ở Hàng Châu làm được ngon như thế.

Nàng tự nhiên ngay cả với hầu bàn và nói, “Chỉ là một món thịt nướng thôi mà.”

– À không. Ðó là một bí quyết. Không phải là việc nướng, mà là những thứ ướp trước khi nướng.

Nói xong lão bỏ đi, vai đứng thẳng. Thực là lạ lùng, hình ảnh một cô gái trẻ đẹp có thể ảnh hưởng đến cả một ông già. Hai người uống rượu vang trước, và nàng gắp lên một trái tắc. Nàng nhắm mắt lại và khẽ kêu lên, “Ôi thật là thiêng liêng!… Anh có nhớ hồi chúng ta nhặt trái tắc tại Ðông Lục và ăn ngay tại chỗ không?”

– ừ, phải, tại Ðông Lục. Anh nhớ.

Cái nhìn của nàng nghiêng xuống chàng trong lúc chàng cúi đầu. Quả thực chàng nhớ lại rất rõ hai người đã sống suốt đêm ngoài trời, gần một con suối và sau đó, buổi sáng hôm sau, cùng bơi lội trần truồng với nhau. Ðó là một cái nơi gợi xúc động nguy hiểm và chàng mau lẹ cố quên đi. Chàng ngẩng lên và nói:

– Mẫu Ðơn, anh muốn nói một điều với em.

– Nói đi.

– Em sắp đi Bắc Kinh. Anh đoán chừng có nhiều đàn ông tại kinh đô. Anh muốn em phải rất cẩn thận. Anh không bao giờ muốn trông thấy em bị thương tổn, hoặc gặp rắc rối.

– Anh muốn nói gì?

Chàng trả lời bằng một nỗi buồn vô cùng. “Anh đang chết dần từng chút một. Chậm chạp, từng chút một, anh muốn nói…”

– Xin anh đừng nói như thế.

– Ðừng bao giờ quan tâm cho anh. Ðó không phải là điều anh muốn nói.

– Vậy thì là cái gì?

– Em phải tự bảo vệ mình. Cái cách chúng ta sống với nhau. Có con – em hiểu anh muốn nói gì.

Nàng bật cười. “Ài, cái đó! Anh đừng lo.”

– Nhưng anh lo lắng. Em có thể thích một người đàn ông. Người ấy có thể thích em một thời gian. Rồi có chuyện xảy ra và em mắc kẹt.

– Anh biết em có thể tự lo liệu được mà.

Nàng nói với một sự tự tin hoàn toàn. Hai người bàn cãi về những phương pháp ngừa thai lâu đời. Hai người biết rõ nhau đến nỗi nàng có thể đi vào chi tiết thân mật. Nàng hỏi mượn một tờ giấy và bút chì. Chàng lục túi và tìm thấy một cuốn nhật ký nhỏ. Hai người chụm đầu lại với nhau và nàng bắt đầu vẽ một cảnh tục tĩu. Mấy người bồi đứng gần đó thú vị nhìn chăm chú, trong lúc nàng cười khúc khích.

Khi uống hết rượu vang, hai người gọi thêm chút cháo. Nói chung bữa ăn tối kết thúc tốt đẹp. Nàng nhìn đồng hồ tay.

– ồ, đã chín rưỡi rồi! Em phải đi đây.

Chàng kinh ngạc sửng sốt.

Nàng giải thích, “Em phải gặp một người lúc mười giờ.”

Chàng thấy nàng lo lắng muốn ra về. Chàng nghĩ thầm, “Hừ, thế là xong rồi.” Ðây là đêm cuối cùng của hai người. Nàng sẽ ra đi, và họ sẽ không gặp nhau nữa. Nàng đã dành cái đêm cuối cùng cho chàng. Nhưng dường như đêm nay không có nghĩa gì với nàng cả. Tình yêu của nàng cho chàng đã chết. Ðó là một sự kiện lạnh lùng, tàn nhẫn, không tránh được. “Em nóng ruột muốn chia tay sớm,” chàng nghĩ thế, nhưng không nói ra.

Chàng bất đắc dĩ đứng dậy, nhận thức đầy đủ hậu quả của lần chia tay này. Chàng nuốt nước miếng khó khăn, trả tiền và hai người đi ra.

Bên ngoài trời mưa tầm tã. Họ đứng dưới hàng hiên, chờ xe kéo. Nàng hỏi:

– Anh có viết thư cho em không?

– Không.

– Chúng ta có gặp lại nữa không?

– Không. Anh có thể không có ở đây khi em trở lại.

Có một sự bất mãn sâu xa khi nàng nói, “Ðược rồi, đây là cuộc vĩnh biệt của hai ta.”

Nàng ngẩng mặt lên, và hôn chàng một cách vội vàng. Xe kéo tới, và chàng nhìn nàng bước lên xe. Mặt nàng hiện bên trên tấm vải che mưa, nhưng chàng không biết nàng đang cười hay khóc.

Rồi vào giây phút cuối cùng, một cơn đam mê xâm chiếm chàng, và trái tim chàng cảm thấy một cơn đau nhói dữ dội. Chàng chạy vội lại chiếc xe kéo và lắp bắp, “Chúc em may mắn!”

Những việc chúng ta làm ở lại sau chúng ta. Sự việc qua đi, nhưng ký ức còn lại, vẫn len lén vào tâm hồn mà chúng ta không biết. Dục vọng chỉ thoáng qua, nhưng hối hận là vĩnh cửu. Cả Tần Châu và Mẫu Ðơn đã tự lừa dối khi họ chia tay, nghĩ rằng tất cả đã chấm dứt, không bao giờ còn trông thấy nhau nữa.

Mối tình của Mẫu Ðơn với Tần Châu là chìa khoá cuộc đời nàng. Có người tin rằng chính định mệnh đã bắt nàng phải gặp và mất chàng, bắt chàng phải kết hôn với một người đàn bà khác. Nếu nàng có thể kết hôn với chàng lúc còn là một thiếu nữ, thì sẽ chẳng có chuyện để viết. Sẽ không có bài vè để hát về “Hồng Mẫu Ðơn.” Về mặt khác, khi chia tay với người yêu, nàng đã gây đau đớn cho chàng và cho chính nàng. Con người kiểm soát được Ðịnh Mệnh hay Ðịnh Mệnh kiểm soát con người, để trút sự trả thù bằng một cách mà những người trong cuộc không biết?

Mẫu Ðơn không nói dối khi nàng bảo Tần Châu rằng nàng đi chơi thuyền với vài người bạn gái. Trong hai ngày qua, Mạnh Giao rất bận rộn với nhiều công vụ, kể cả cuộc thăm viếng Nghi thân vương, anh em họ của vua Quang Tự. Nghi thân vương giữ chức Tuần Vũ, và có quyền tài phán tại Lưỡng Giang (Giang Tô và Chiết Giang, có nghĩa là từ Hàng Châu tới Nam Kinh). Khi người ta biết Mạnh Giao có mặt tại địa phương, thì những lời mời tuôn đến cái khách sạn nơi người thư ký của chàng ở. Rất nhiều lời xin bút tự của chàng, và tên thư ký Trần Lý mang theo rất nhiều giấy để viết bút thiếp. Chàng không thể từ chối những lời cầu xin này. Như các học giả khác, chàng mang theo một loại mực rất tốt và con dấu tên chàng để viết bút thiếp. Chàng cũng nhớ được nhiều thơ ca trữ tình thời nhà Tống để viết. Nếu không, chàng sẽ viết những lời phê bình hoặc những bài thơ ngẫu hứng, loại này người ta tán thưởng hơn. Chàng bảo tên thư ký từ chối những lời mời khác bằng những lý do rất lịch sự, trong khi chàng ẩn náu tại nhà bà dì. Chỉ trừ một ngoại lệ, đó là lời mời đến hội quán Thi Xã của các nhà thơ nhà văn địa phương.

Ngày hôm sau, Mẫu Ðơn nhận được một mẩu giấy do Tiểu Nhã mang tới, nói quan Hàn Lâm hy vọng gặp nàng vào buổi chiều để nói một vài chuyện. Chàng sẽ đi viếng mộ mẹ tại đồi Phượng Sơn ở phía nam thành phố trên bờ sông Tiền Ðường; nơi ấy chỉ cách nhà Mẫu Ðơn nửa giờ đi bộ. Chàng sẽ ghé lại thăm nàng, và hai người sẽ đi uống trà tại hội quán Thi Xã, ở đó quang cảnh của Tây Hồ rất đẹp. Mẫu Ðơn nói với em gái:

– Em cũng đi theo, nghe không.

Hải Ðường vội trả lời, “Không. Em không đi được. Ðại ca không nhắc đến tên em. Chị đi thôi và hỏi bao giờ đại ca cho đi Bắc Kinh, và phải mang theo quần áo nào. Còn bây giờ chị mặc gì?”

– Thì cứ quần đen như thường lệ.

– Trời đất!

– Anh ấy không để ý đâu. Dẫu sao chị cũng không mặc đồ lụa được.

– Em muốn nói là chị nên mặc cái gì đàng hoàng hơn, chứ không nên cẩu thả như vậy. Ðại ca không bị xúc phạm hay sao?… Em muốn nói chuyện để tang ấy.

– Không. Chị biết rõ anh ấy.

Nếu Mẫu Ðơn có ý định ăn mặc cẩu thả, thì nàng đã hoàn toàn thành công. Hôm đó là một ngày đẹp trời, khô ráo, mát mẻ nhưng không lạnh. Nàng mặc một chiếc áo chẽn cũ màu xanh nhạt và quần đen, rất tầm thường. Hải Ðường khâm phục lòng tự tin đặc biệt của chị khi ra đi gặp quan Hàn Lâm như thế. Nàng có một sự táo bạo mà Hải Ðường không dám; nàng dường như có thể lấy được mọi thứ trên đường đi của nàng.

Xe ngựa của hai người chạy tới hội quán Thi Xã trên Bạch Ðê, hai bên đường phất phơ những rặng liễu vàng vào một ngày thu trong sáng. Bên phải là nhà hàng Lầu Ngoại Lầu; bên trái là tư thất của Ngọc Chữ Nguyên, một nhà thơ và tiểu thuyết gia. Hội quán Thi Xã xây trên một sườn dốc lấp lánh những cây táo, lê và anh đào. Một bậc đá dẫn lên tới tận đỉnh, vì thế đứng trên sân hội quán, người ta có thể nhìn xuống nhà hàng Lầu Ngoại Lầu. Có nhiều phòng trong hội quán trưng bày những phẩm vật nghệ thuật. Những bức bút thiếp đương thời treo đầy tường.

Mạnh Giao chăm chú xem một bức trướng cao một thước rưỡi, trên đó một nhà thơ địa phương, An Ðắc Niệm, viết hai câu thơ. Chàng rất xúc động bởi văn phong mạnh mẽ và đơn sơ của nhà thơ. Thực ra đây không phải là hai câu thơ, mà là hai hàng chữ mạnh mẽ, mỗi hàng chỉ có năm chữ:

Tiền Ðường ôm Thiên Trụ,

Phượng Sơn cưỡi Tiền Ðường.

Có lẽ người viết có cảm hứng và phải viết như thế, như thể những hàng chữ này đã có sẵn từ muôn đời, và nhà thơ chỉ dùng lại từ cõi xưa. Mười chữ mô tả địa hình và quang cảnh của cả thành phố Hàng Châu nằm bên dưới. Không có một tính từ, chỉ có tên một con sông và hai ngọn núi. Sức mạnh của hai hàng chữ tập trung ở hai động từ tạo hình, “ôm” và “cưỡi.”

Mạnh Giao nói bằng một giọng sung sướng tán thưởng. “Anh không tin anh có thể viết hay hơn thế. Tối hôm qua An Ðắc Niệm cũng có mặt tại đây khi người ta đãi tiệc anh. Anh kính nể ông ta.”

– Ông ta như thế nào?

– Một nhà thơ trẻ xuất chúng, một cá tính đặc biệt – rất sôi động và lãng mạn. Anh thích ông ta. Ông ta hoàn toàn tự nhiên và không làm bộ kiểu cách.

Hai người bước ra hiên và dùng trà tại đó. Xa bên dưới, dòng sông Tiền Ðường mênh mông chảy vào hồ; con sông cuộn lên vào cuối chiều thu như một giải bạc. Bên phải, những giải mây bay trên núi Thiên Trụ, bây giờ trông như những vệt tím xanh trên bầu trời xa, trong khi núi Phượng Sơn bên cạnh đang “cưỡi sông Tiền Ðường”, như trong câu thơ. Bên dưới họ là một vùng nước màu xanh nhạt của Tây Hồ, phản ảnh bóng cây và những biệt thự trên bờ nước nhiều màu sắc. Ðằng sau họ là Nội Hồ và chùa Bảo Tự, một ngôi chùa cổ có từ một ngàn năm trước. Theo truyền thuyết thì hồn rắn Thanh Sà bị giữ bên dưới cái mái bằng đá của chùa Bảo Tự. Giữa hồ là Tam Ðài Ấn Nguyệt, một hòn đảo thần tiên, và ngay bên dưới họ là những hàng liễu rủ. Họ có thể trông thấy đảo Tam Ðài Ấn Nguyệt, trông như một ngôi đền phía trước có ba cái ao trên ba bậc khác nhau, giúp du khách có thể trông thấy mặt trăng cùng một lúc phản chiếu từ ba cái ao này về ban đêm.

Mẫu Ðơn thu mình trên ghế, hai chân duỗi ra trong cái quần đen đã sờn rách và đôi giầy không mới lắm. Mạnh Giao đã bảo hầu bàn để bình trà lại, để chàng tự rót lấy. Mẫu Ðơn hiểu chủ ý của Mạnh Giao.

Tim nàng đập mạnh trong niềm thán phục người đàn ông này. Hai má rắn chắc của chàng có những nếp nhăn sâu dưới ánh nắng – một nhà học giả mà chưa phải là học giả. Theo hình dáng bề ngoài, chàng dễ bị tưởng lầm là một người lái buôn. Cung cách của chàng dễ dàng, tự nhiên, và có thể nói không phải là cung cách của một ông quan. Chàng thích sắn cổ tay áo lên cao, để lộ vải lót trắng bên trong ra ngoài. Ngay lúc này, khi nàng mơ màng nhìn mặt hồ bên dưới, nàng biết chàng đang nhìn nàng. Chàng hỏi:

– Em đang nghĩ gì thế?

– Không nghĩ gì cả. Chỉ để mặc tư tưởng trôi đi và sung sướng. Còn anh thì sao?

Giọng nàng líu lo trong trẻo như một con chim sẻ.

– Anh chỉ nhìn em và suy nghĩ.

Nàng liếc mắt nhìn chàng. “Suy nghĩ gì?”

– Suy nghĩ đến phép lạ của sự hạnh ngộ giữa chúng ta. Tại sao em chọn con đường đi qua Ñch Xương như anh? Anh chọn là vì con đường đó thoáng rộng hơn…

– Và em chọn con đường ấy bởi vì em muốn đi qua Thái Hồ từ Ñch Xương.

– Nếu không thế thì chúng ta không bao giờ gặp nhau… Mẫu Ðơn, anh muốn nói điều này. Chúng ta sẽ sống chung với nhau như anh em họ. Nhưng em và anh không bao giờ lấy nhau được. Em có chắc rằng em chấp nhận như thế không? Anh cảm thấy anh không có quyền… Nhưng anh cần em lắm. Chúng ta là của nhau, dù kết hôn hay không cũng vậy.

Nàng tin tưởng quay nhìn chàng. “Dĩ nhiên. Anh là tất cả của em, nhưng em không nhìn thấy cái mà anh nhìn thấy ở em. Em không tin được. Thỉnh thoảng em nghĩ là em đang nằm mơ khi anh ở Phúc Châu – em tưởng như cả chuyến đi cũng chỉ là một giấc mơ.”

– Anh nói với em điều này. Em có thể nghĩ anh là một ông quan ở Bắc Kinh, nhưng anh có giấc mơ riêng của anh. Hai tâm hồn bình dị kết hợp trong một căn nhà đơn sơ. Anh nhìn em lúc nãy, và tin chắc rằng chúng ta là của nhau. Anh vẫn sợ hôn nhân – vô tận những người bên nhà vợ, cái bề ngoài xã hội, những lời ngồi lê đôi mách ngu xuẩn. Người ta cứ luẩn quẩn rồi quên không biết mình ở đâu và là gì. Chuyện này đã xảy ra trong hôn nhân trước của anh. Nhưng anh nuôi một giấc mộng riêng tư – một gia đình nhỏ với người anh yêu, một người như em bên cạnh anh, giản dị, vui tươi, với trái tim đầy tình yêu, và sống coi thường chung quanh. Như thế đủ rồi. Anh không muốn gì khác nữa. Em hoàn toàn hợp với giấc mơ ấy. Ăn mặc như em. Giống như thế.

Mẫu Dơn mỉm một nụ cười ngờ vực. “Giống như thế này?”

– Y phục chỉ là tương đối. Em không thể mặc như thế tại Triều Ðình Bắc Kinh. Nhưng em ăn mặc rất thích hợp cho một hòn đảo vắng… Anh không nghĩ anh có lý do phải sợ em…

Mẫu Ðơn cười khúc khích. “Anh biết cha em chẳng là gì cả, chỉ là một thư ký ngân hàng. Ðiều ấy chẳng tuyệt diệu ư?”

– Có một cái gì hơn thế. Anh tin rằng khi một người được sinh ra, tâm hồn người đó bay đi tìm một tâm hồn khác được sinh ra cho mình. Chàng có thể không tìm thấy nàng. Hoặc phải mất mười, hai mươi năm. Ðối với một người con gái cũng vậy. Nhưng khi hai người gặp nhau, sự nhận ra cái phần kia của tâm hồn mình là tức khắc, do bản năng, không cần thảo luận, không cần lý do, và lưỡng tương. Họ biết ngay từ khi sinh ra rằng họ phải đi tìm kiếm nhau. Họ sẽ hoà nhập làm một và không gì có thể phân cách họ nữa; họ được trói buộc với nhau bằng một lực mạnh mẽ nhất trong vũ trụ. Ðó là cái thứ cảm giác em cho anh, khi em nắm cánh tay anh cái ngày em đứng xem chim cốc. Nó xảy ra nhanh như thế.

Nàng dịu dàng trả lời, “Em không biết em có xứng đáng với anh không, nhưng em cũng cảm thấy như anh. Ðó là một tình cảm ngọt ngào, một cảm giác hoàn toàn thoải mái, như thể chúng ta đã biết nhau từ những kiếp trước. Có thể đúng như vậy.”

– Dĩ nhiên là đúng như thế.

Nàng đứng dậy, bước lại tựa vào một cây cột, một lần nữa lại đắm chìm vào những gì đã xảy ra cho nàng; Tần Châu đã đi sâu vào tâm thức nàng, đủ để làm nàng cảm thấy buồn vô hạn. Mạnh Giao trông thấy hai chân mặc quần đen của nàng duỗi ra, cằm tựa vào cánh tay. Nàng giữ nguyên vị trí ấy trong vài phút, cùng một lúc vừa buồn vừa vui. Rồi nàng nghe thấy chàng đẩy lùi ghế và bước lại sau lưng nàng. Nàng đứng thẳng dậy khi chàng đặt tay lên vai nàng. Nàng quay lại và nói:

– Cái giây phút như thế này có tuyệt diệu không? Không bao giờ có thể tìm lại được nữa.

– Không. Mọi thứ đều qua đi. Tô Ðông Pha cũng đứng ngay chỗ này một ngàn năm trước. Nếu em đọc kỹ thơ của ông ta em sẽ biết.

– Triêu Vân có ở với ông ta lúc ấy không?

– Nàng là một người con gái mười hai mười ba tuổi, khi họ gặp nhau tại Tây Hồ. Nàng là người yêu thực sự của ông ta, chứ không phải vợ ông ta. Làm sao em giải thích được những chuyện ấy?

– Em biết Triêu Vân trẻ hơn ông ta rất nhiều.

– Phải, nàng đi theo ông ta tới nơi đi đầy. Nhưng họ gắn bó với nhau và họ là của nhau. Những bài thơ tình hay nhất ông ta viết là về nàng, những bài ca ngợi và tuyệt tác nhất.

Chàng đứng ngay sau lưng nàng. Bỗng nhiên chàng có một cảm hứng, khi chàng nhìn cái quang cảnh đằng xa qua vai nàng. Chàng nói, “Anh có hai câu thơ tặng em.”

Mây Thiên Trụ dâng lên từ những lọn tóc cuộn lại,

Tam Nguyệt Kính nằm dưới bộ ngực tuyệt đẹp của em.

Mẫu Ðơn mỉm cười với chàng, mắt nàng lấp lánh ấm áp. Về sau, khi nàng lập lại hai câu thơ cho Bạch Huệ, Bạch Huệ phải kêu lên, “Câu thơ thật gợi dục!”

Hai người nắm tay nhau trở lại chỗ ngồi.

– Chừng nào chúng ta khởi hành đi Bắc Kinh?

– Anh chưa biết rõ. Anh bàn với Tô thúc thúc tối hôm qua. Ông rất thích cái ý kiến của anh có thể mời được Nghi thân vương đến dự tiệc của gia tộc chúng ta. Anh biết Nghi thân vương sẽ tới nếu anh mời. Dĩ nhiên sự hiện diện của ông ta sẽ là đại vinh dự cho cả dòng họ. Nhưng trước hết anh phải dò hỏi khi nào ông ta rảnh. Ngay sau bữa tiệc của gia tộc, chúng ta có thể khởi hành đi Bắc Kinh.

– Anh nói chuyện bằng tiếng Mãn Châu với thân vương, phải không? Em nghe nói anh có thể nói được tiếng Mãn Châu.

– Ðôi chút thôi – đủ để nói chuyện… Anh muốn đi đâu nghỉ ngơi một chút, ẩn dật tại một nơi nào đó. Anh nghĩ đến núi Thiên Mộc Sơn, nhưng cuộc hành trình sẽ vất vả cho em.

– Cho em?

– Còn ai nữa? Anh chỉ có em trong tâm trí anh. Anh muốn nói một chuyến đi tới một nơi vắng vẻ, một nơi anh có thể ở riêng một mình với em, nơi mà không ai biết chúng ta. Em có ý kiến gì không?

Một ý kiến hiện ngay ra trong trí nàng.

– Nếu em mời, anh có chịu tới Ðông Lục không? Ðó là căn nhà trên núi của người bạn thân nhất của em, chị Bạch Huệ, và chồng chị. Em muốn anh gặp bạn em. Chị ấy đã tôn kính anh rồi, mặc dù chưa hề gặp anh.

– Anh nghĩ đến một chuyến đi ẩn dật tại một nơi không có ai ngoài chúng ta.

– Chúng ta sẽ chỉ có một mình… Lúc nãy anh nới tới một giấc mộng riêng của anh. Một căn nhà đơn sơ của hai tâm hồn giản dị, biệt lập khỏi cái ồn ào náo nhiệt của cuộc đời. Chị ấy và Như Thủy sống đúng một cuộc đời thần tiên trên núi. Em thực tình nghĩ rằng anh sẽ thích nơi ấy. Còn về sự riêng tư thì giữa em và Bạch Huệ không có một bí mật nào. Em có thể làm bất cứ cái gì em thích.

– Em nói có vẻ thuyết phục lắm.

– Anh đi không?… Em sẽ cho bạn em biết. Chị ấy sẽ vui mừng lắm.

– Theo cách em nói về bạn em, thì dường như anh phải được sự chấp thuận của bạn em trước khi em đi Bắc Kinh với anh.

– Ðừng nói như thế. Em biết anh sẽ thích bạn em.

Sườn đồi mùa thu chói lọi với màu đỏ và vàng trên hai bên bờ sông khi hai người tới Phú Xuân Giang. Ở miền nam này, rau cỏ rất là tươi tốt. Những ghềnh đá chênh vênh cao hàng trăm thước trên bờ. Dòng nước sông rộng và sâu, và núi thì cao chót vót, đổ bóng tối xuống nhuộm mặt nước thành một màu lục trong xanh như ngọc. Quang cảnh đẹp đẽ một cách tự nhiên. Cả vùng này, nơi Phú Xuân Giang và Thiên Mộc Giang nhập với nhau từ Yên Châu tới Kinh Hạ, là vùng đất đai tốt và thương mại phồn thịnh. Những thuyền bè chuyên chở hàng hóa tới thủ phủ danh tiếng Hàng Châu. Ðây không còn là những ngọn đồi trơ trọi của miền bắc nữa, mà là những vùng đất cao hùng vĩ lộng lẫy với rừng xanh và chim hót, trải xuống hàng trăm dặm từ rặng núi Hoàng Sơn lừng lững tuyết phủ, bắt đầu từ miền nam An Huy. Phú Xuân Giang có nghĩa là con sông giầu về mùa xuân.

Mạnh Giao và Mẫu Ðơn ngồi chung thuyền với hơn một chục hành khách khác. Bạch Huệ đã trở về trước một ngày để sửa soạn đón tiếp khách. Hai người cảm thấy hoàn toàn cô đơn trong chiếc thuyền; Mẫu Ðơn nói chuyện suốt chặng đường, an tâm biết rằng chẳng ai biết họ là ai – tự do và cô đơn với sự quyến rũ của rặng núi con sông muôn đời tươi mát, và hai trái tim dâng hiến cho mối tình đang nẩy nở. Nàng biết một cái gì không tránh khỏi, một cái gì sẽ xảy ra đêm hôm ấy.

Con thuyền dừng lại Ðông Lục, tại đó một vài hành khách xuống thuyền. Ðây là một bến sông có một hai đường phố trải sỏi. Như Thủy, đội nón người Hồi màu đen, đang đứng trên bến chào đón và đưa họ về nhà. Chiếc nón cao càng làm cho thân mình cao của chàng cao hơn. Trong cái làng ven sông này, ai cũng biết chàng. Gầy, mảnh khảnh và trắng xanh, chàng đẹp trai một cách khác người; nước da trắng xanh và bộ ria mỏng khéo tỉa khiến chàng trông hấp dẫn hơn. Tại sao, thực khó mà giải thích, nhưng chàng thường mặc một chiếc áo choàng không cài nút cổ, và trễ xuống như một chiếc bao tải.

– Bạch Huệ đang đợi anh chị ở nhà. Cô nàng rất tiếc không thể đích thân xuống đón khách quý được.

Mạnh Giao trả lời, “Anh tới đón là tốt quá rồi.”

Như Thủy thuê phu mang hành lý lên, và đã thuê ba chiếc kiệu. Mạnh Giao hỏi:

– Chúng ta không đi bộ lên được ư?

– Khá xa đấy – khoảng hai dặm.

Mạnh Giao quay lại Mẫu Ðơn. “Em nghĩ sao?”

– Trời đẹp quá. Tại sao chúng ta không đi bộ?

Như Thủy đề nghị, “Bây giờ thế này. Chúng ta hãy dùng kiệu, và chúng ta có thể bước xuống đi bộ bất cứ lúc nào chúng ta muốn. Tôi đã mang theo hai cây gậy để chống đây.”

Mẫu Ðơn vui vẻ trả lời, “Như vậy thú vị lắm.” Rồi nàng nắm lấy một cây gậy sần sùi, thô sơ, dường như được chặt ra từ khu rừng ở đây. Nàng vui sướng chớp mắt ngó quanh, khuôn mặt rạng rỡ. Như Thủy nhận xét:

– Chị vui vẻ như vậy thực là tốt.

Mấy người phu kiệu trẻ tranh nhau để được khiêng nàng. Họ la lên, “Mời cô lại đây!” hoặc “Hãy dùng kiệu của tôi!”

Một chiếc kiệu miền núi rất là đơn sơ, chỉ gồm có một cái ghế đan bằng tre có một mảnh ván làm chỗ để chân, và được khiêng bằng hai chiếc sào lớn buộc vào thành ghế. Mẫu Ðơn bước lên một chiếc kiệu; rồi chiếc kiệu được khiêng lên và bắt đầu lên núi. Nàng trông thấy chiếc nón đen của Như Thủy nhấp nhô đằng trước trong khi kiệu của Mạnh Giao đi phía sau.

Ðược nửa đường, nàng trông thấy cái đuôi rực rỡ của một con chim trĩ chạy lẩn trốn vào rừng. Nàng quay lại và chỉ cho Mạnh Giao. Mấy người phu kiệu vội la lên:

– Cô ơi, xin ngồi yên!

Mấy người phu khác cũng kêu lên như vậy. Ðây là một việc rất quan trọng đối với họ, khi bị tất cả sức nặng đè mạnh lên vai.

– Tôi xin lỗi… Tại sao chúng ta không xuống kiệu cho họ khỏe đôi chút. Tại sao chúng ta phải khiêng như thế này khi mà chúng ta thích đi bộ?

Mạnh Giao và Như Thủy cũng cảm thấy như vậy và đồng ý. Ba chiếc kiệu dừng lại. Khi nàng bước xuống, một phu kiệu nói:

– Cô tử tế quá.

Nàng rất dễ tính và thân thiện với phu kiệu. “Tôi có nặng quá không?”

– Không đâu, thưa cô. Bất cứ khi nào cô muốn ngồi kiệu lại, xin cho chúng tôi biết. Chúng tôi hân hạnh được khiêng cô.

Tất cả đã xuống kiệu, và đứng ngắm những đỉnh núi chung quanh một giây lát. Phu khiêng kiệu đứng lau mồ hôi bằng những chiếc khăn đen đem theo. Người già nhất đang thở hào hển. Mạnh Giao nói:

– Thúc thúc cứ nghỉ đi. Còn bao xa nữa?

– Chúng ta đã đi được hai phần ba con đường. Từ đây chỉ còn chừng hai mươi phút nữa.

Con đường chạy chữ chi qua một khu rừng toàn những cây dương. Ðó đây rễ cây hoặc đá nhô lên mặt đường. May mắn là con đường đất đỏ khô ráo và dễ đi. Ba người cứ tiếp tục đi, và bọn phu kiệu theo sau. Như Thủy chú ý đặc biệt đến Mạnh Giao, tuy là một nho sĩ mà đi rất vững chắc bên cạnh. Như Thủy nói:

– Anh coi cái ông già đi đằng sau. Tôi ngồi kiệu của ông ta một ngày gió lớn. Gió cuồng nộ suốt con đường. Ðược nửa đường ông ta cảm thấy không thể tiếp tục được nữa. Ông ta ho dữ lắm. Tôi bảo ông ta để tôi xuống đi bộ và cho ông ta và người bạn khiêng kiệu về. Anh biết sao không? Tôi trả tiền mướn kiệu, nhưng ông ta không nhận, và nói, “Không được, tôi phải khiêng ông lên tới nơi. Bây giờ tôi không làm được, tôi không lấy tiền đâu.” Tôi phải ép buộc ông ta nhận, và ông ta nhận như là một món quà tặng, chứ không phải là tiền ông ta kiếm được. Ông ta là một người thuộc giới cổ. Bây giờ chúng ta tìm đâu ra được những người như thế?

Khi ra khỏi khu rừng, họ lên tới vùng đất cao đã được san phẳng. Quay nhìn lại, họ trông thấy một cái làng nhỏ bé sâu bên dưới. Bên tay phải, sườn núi dốc thẳng. Bên ngoài sườn núi tối tăm này, những chỏm núi màu xanh xám chồng chất lên tới trời. Từ đằng xa một thác nước đổ xuống, lấp lánh trong ánh nắng như một sợi chỉ bạc nhỏ sáng rực. Không khí trên núi mát mẻ hơn. Thực là lạ lùng chỉ lên cao một dặm mà họ đã bước vào một thế giới hoàn toàn mới lạ, tại đó hoa và cây cối khác hẳn bên dưới, và không khí ngửi như mùi rượu nho. Mẫu Ðơn nói với Mạnh Giao:

– Có giống thiên giới không?

Mạnh Giao hỏi Như Thủy, “Trong núi này có thú rừng không?”

– Có thỏ rừng – anh có thể trông thấy chúng nhảy nhót quanh đây – và một loại nai đầu nhỏ. Còn có rất nhiều lợn rừng. Nghe nói có cả gấu nữa, nhưng tôi không biết rõ. Anh có săn thú không?

– It khi lắm.

– Tôi cũng không muốn săn bắn thú rừng.

– Anh sống ở đây có vẻ cô đơn.

– Tại trên chỗ tôi ở, có một nhà nông dân nữa ngoài nhà của chúng tôi. Thỉnh thoảng, một người chăn cừu cũng tới, và chúng tôi nghe thấy tiếng cừu kêu. Thực tình chúng tôi không có gì cống hiến cho anh, ngoại trừ không khí trên núi – nhiều lắm.

Mạnh Giao tỏ ra thích Như Thủy ngay. “Anh là người rất giống tâm hồn tôi. Nhưng ít người có cái may như anh.”

Mẫu Ðơn tỏ ra rất sung sướng. “Không phải vậy sao? Phải can đảm mới dám lên đây sống xa cách mọi người.”

Họ hăm hở bước tới bờ sông, nơi có một căn nhà. Như Thủy nói với phu khiêng kiệu, “Tôi không nghĩ chúng tôi ngồi kiệu nữa. Các ông có muốn lên dùng một tách trà không, hay là các ông muốn quay về ngay?” Những người phu kiệu nói trời có thể tối ngay, và họ muốn về nhà nếu không cần đến kiệu nữa. Chỉ có một người đi theo. Người đó vác hành lý và sẽ nhận tiền khiêng kiệu cho những người khác. Chỉ vào một cái khe trên bờ sông về bên trái, Như Thủy nói:

– Một con đường dẫn qua cái khe này, tới chỗ câu cá của Yên Tử Linh.

– Thật là ngoạn mục. Ngày mai chúng ta sẽ ra xem.

– Gió tại đó mạnh khủng khiếp khi cuốn theo cái khe núi. Gió có thể thổi bay cả nón.

Mẫu Ðơn nói với Mạnh Giao, “Này, khoan đã! Ngày mai là ngày song-cửu. Và tên anh cũng giống cái tên đó trong lịch sử. Có phải là ngẫu nhiên không?” Vào thế kỷ thứ tư cũng có một nhà thơ tên là Mạnh Giao, và ông ta đã làm cho cái ngày mùng chín tháng chín được nổi tiếng. Vào ngày ấy, ông ta mất mũ mà không biết, và Mạnh Giao thường nhắc nhở đến chuyện này. Mạnh Giao nói:

– Anh không nhớ đến chuyện ấy.

– Tôi cũng vậy. Nhưng Bạch Huệ nhớ. Chúng ta sẽ ăn mừng.

Sau khúc quanh của một đỉnh đồi, căn nhà của Như Thủy hiện ra trước mắt, ẩn hiện sau khúc quanh kín đáo của ngọn đồi. Ngay sau đó họ trông thấy một hình dáng màu trắng bước ra. Mẫu Ðơn bước vội tới và kêu lên:

– Bạch Huệ!

Bạch Huệ vẫy tay chào lại, và rồi chạy xuống đồi để gặp hạn. Nàng trông như lướt xuống chứ không phải là bước đi, bằng một cử động mau lẹ như một con báo. Nàng rất mảnh khảnh. Mạnh Giao trông thấy hình dáng thanh tú của nàng và cái mũi thẳng nhọn. Tóc nàng chải gọn về phía sau, như Mẫu Ðơn, và nàng mặc rất đơn sơ, áo chẽn và quần. Nàng nhìn ông hàn lâm chăm chú, người khách nàng gặp lần đầu. Mọi người giới thiệu với nhau. Nàng mỉm cười rất duyên dáng để lộ một hàm răng trắng rất đẹp và nói, “Tôi rất hãnh diện được anh tới thăm.”

Mạnh Giao trả lời lịch sự như thường lệ. Chàng ngẩng đầu lên, đọc cái tên của căn nhà khắc màu lục, “Ngoài Cõi Hồng Trần”, và khen:

– Cái tên nhà thực là hay!

Mẫu Ðơn giọng đầy vui thích hứng khởi, “Hãy chờ lúc anh trông thấy cảnh ở sân sau đã.”

Tất cả đi vào nhà. Bạch Huệ không thể rời mắt khỏi người khách đặc biệt, bởi vì nàng đã biết bí mật của bạn, và nhìn Mạnh Giao như là người yêu của Mẫu Ðơn hơn là nhìn một nhà học giả. Bên trong nhà rất sáng sủa, thoáng khí và rộng rãi; đồ đạc thì đơn sơ không cầu kỳ. Một đôi dép hồng nằm trơ vơ ngay giữa sàn gỗ. Như Thủy phải kêu lên:

– Trời ơi, Bạch Huệ! Anh tưởng em đã dọn dẹp nhà cửa đôi chút để đón khách rồi.

Nàng ngọt ngào cười với chồng, “Em chưa dọn hả? Em đã làm hết sức mình rồi mà.”

Mẫu Ðơn nheo mắt cười ròn rã. Nàng bảo Mạnh Giao, “Em đã nói gì với anh?”

Mạnh Giao có vẻ khá ngạc nhiên. “Thật là tuyệt vời. Anh chị đã tạo được một tổ ấm yêu đương tại đây, một thế giới riêng của anh chị!” Chàng nghĩ rằng căn nhà này trông sẽ kém một tổ ấm yêu đương nếu đôi dép hồng không nằm chình ình giữa sàn nhà.

Trên tường là những kệ sách không quá thô sơ, trên đó những cuốn sách nằm ngả nghiêng. Một bàn hút thuốc phiện kê ở phía tay phải. Mạnh Giao hỏi:

– Anh hút thuốc phiện hả?

– Không, chỉ là một đồ trang trí thôi. Bạch Huệ muốn có nó ở đấy. Nó làm cho căn phòng có vẻ ấm cúng, nhất là khi ngọn đèn được đốt lên vào ban đêm.

Rồi Như Thủy mời, “Nào, để tôi cho anh chị xem vườn của tôi.” Chàng dẫn hai người ra sân sau trông xuống con sông. Khoảng gần một trăm thước bên dưới là dòng sông Phú Xuân Giang lặng lờ và trong xanh. Một chiếc thuyền câu buộc vào bờ đá, trông giống như một chiếc lá tre. Bên kia sông, một ngọn núi nhô lên trên cái bờ đá dốc, phía trên đang rực lên với những cây dương đỏ run rẩy còn phản chiếu ánh mặt trời, còn bên dưới nhạt dần thành những đám mây tím, nâu, và vàng. Về hữu ngạn, con sông một phần bị che khuất, nhưng bên tả ngạn, họ có thể trông thấy một giải đồng quê trải dài đến tận đằng xa. Mạnh Giao hỏi:

– Vườn của anh đâu?

Như Thủy trả lời bằng một sự hài hước lặng lẽ và rõ ràng. “Ðây là vườn của tôi. Vườn này thay đổi bốn mùa một năm, và tuyệt diệu hơn thế nữa là tôi không phải bỏ ra một đồng xu để chăm sóc.”

Mạnh Giao hiểu. Khi ba người trở vào phòng khách, Bạch Huệ dẫn Mẫu Ðơn đến phòng của nàng ở hướng bắc mà Như Thủy vẫn dùng làm một phòng ngủ phụ khi chàng muốn nghỉ ngơi ban ngày. Như Thủy dẫn Mạnh Giao vào thư phóng nối liền với phòng ngủ ấy. Một bình nước để sẵn trên bàn đầu giường.

– Tôi tin anh sẽ có đủ mọi thứ anh cần. Anh sẽ muốn tắm và nghỉ ngơi đôi chút.

– Thật là hoàn toàn.

Mạnh Giao vui vẻ trả lời, và rất hài lòng với sự sắp đặt của gia chủ.

Như Thủy xin lỗi phải đi vào bếp. Bạch Huệ dẫn Mẫu Ðơn vào phòng ngủ của vợ chồng nàng để chuyện trò. Một lúc lâu lắm hai người mới trở ra, để thấy Mạnh Giao đang đi loanh quanh một mình, ngắm nhìn cái vườn cảnh nhỏ bên ngoài cửa sổ thư phòng. Trông thấy Bạch Huệ, Mạnh Giao hỏi:

– Như Thủy đâu?

Bạch Huệ trả lời, “Anh ấy ở trong bếp.”

Mẫu Ðơn nói thêm, “Như Thủy là một đầu bếp giỏi.”

Ðối với Mạnh Giao, Như Thủy là một sự bí mật. Tên chàng có nghĩa là “giống như nước,” lấy từ câu nói thâm thúy của Lão Tử: “Phần hay nhất của con người giống như nước… Nó nằm ở những nơi thấp mà ai cũng coi thường.” Chàng muốn học hỏi về cá tính của Như Thủy. Chàng hỏi:

– Anh ấy làm nghề gì?

Bạch Huệ trả lời, “Anh ấy chẳng làm gì cả và làm đủ mọi thứ. Anh ấy đang làm món đầu cừu hầm để đãi anh bây giờ. Thỉnh thoảng anh ấy cũng vẽ nữa, những khi anh ấy muốn. Anh ấy viết những bài thơ dở dang, nhưng bận tối ngày. Anh ấy vẽ kiểu đồ đạc của chúng tôi, trồng rau, và giúp con bác nông dân tưới vườn…”

Nhưng Bạch Huệ không giải thích cho chàng tại sao Như Thủy chọn lối sống đó. Một người phải có một sức mạnh tinh thần mới có thể hạnh phúc và bằng lòng khi không làm gì cả. Có lẽ một người có tinh thần hài hước sâu sắc và thông minh dí dỏm, biết rõ đời người, và cố gắng hưởng tối đa cuộc đời, và ít nhất không làm hư hỏng cuộc đời. Có Bạch Huệ là bạn đường, chàng dường như thực hiện được giấc mộng có được một cuộc sống hài lòng.

Trước hết, một người không thích sát sinh mà trở thành một chuyên viên nấu đầu cừu là một sự mâu thuẫn. Chàng không giết thú vật, nhưng chàng cũng không phải là một người ăn chay, không thèm ăn thịt. Khi chàng ở trong bếp đi ra, hai tay bưng một cái nồi bằng đất, mặt chàng rạng rỡ niềm vui và hãnh diện trong cái món ăn phải nấu đặc biệt này. Quả thực chàng là một tay nấu đầu cừu cừ khôi, và món này phải ăn lúc còn bốc nóng. Mạnh Giao nhận được vị của rượu vang và một vài thứ rau trong món ăn. Sụn đã được hầm nhừ trở thành một chất keo mềm; những thứ khác được thêm vào để tăng thêm mùi vị. Như Thủy nói với khách:

– Ở trên núi này chúng tôi không có nhiều thứ để đãi anh chị. Nhưng chúng tôi có món thịt cừu ngon lành. Với món này và rượu vang hâm nóng, tôi hy vọng anh chị có thể hoàn toàn thoải mái và sung sướng đêm nay. Tôi nghĩ tôi nấu món này rất vừa.

Chàng đứng dậy và chọn những miếng thịt ngon nhất, gắp vào chén của Mạnh Giao và Mẫu Ðơn, cùng với hành và nấm trong nước chấm. Rượu được nâng ly mừng khách, và mọi người bày tỏ lòng ưa thích món ăn của Như Thủy. Mạnh Giao hỏi:

– Hãy cho tôi biết tại sao anh chọn cái tên ấy cho biệt xá này? Nghe hơi buồn, phải không?

Như Thủy trích lời của Trang Tử: “Những người xuất chúng thoát ra ngoài sự đau đớn dày vò của dục vọng và do đó trở thành bất tử. Chúng ta chưa phải là những người bất tử, và sẽ chẳng bao giờ có thể. Anh có thấy lời nói nghe có vẻ kỳ cục không, quan Hàn Lâm?”

– Chắc chắn nghe có vẻ là cái tên thích hợp cho một tổ ấm yêu đương.

– Có lẽ nó có cái hương vị ấy. Ðiều tôi muốn nói là chúng ta có cái đời cảm thụ được, đời sống của cảm giác và cảm xúc. Tôi không nghĩ chúng ta nên chê bai nó, nhưng mà phải tận dụng được cái hay của nó. Trên tất cả, chúng ta không nên làm hư hỏng nó, cách mà con người làm trong xã hội và trong chính trị. Tôi chỉ có ba luật lệ nhỏ bé cho riêng tôi: Ðừng làm tổn thương người, đừng giết thú vật, và không phí phạm một hạt gạo. Về mặt tích cực thì chỉ có một luật lệ: Tôi phải biết ơn được sống, biết ơn tất cả những thứ mọc lên và sống quanh ta. Ngay trong việc thực hiện những hành động tầm thường nhất, chúng ta cũng phải vui sướng vì tặng phẩm này của đời sống. Tại sao Ðào Khảm sáng nào cũng khiêng một trăm viên gạch ra ngoài và tối lại khuân vào? Tôi nghĩ ông ta biết hưởng cái tặng phẩm của đời sống.

Mạnh Giao hiểu; tất cả chủ nghĩa lãng mạn của thế kỷ thứ tư đã bộc lộ ra trong người chủ nhà. “Tôi nghĩ anh đang cố gắng chấp nhận cuộc đời này, cuộc đời của ham muốn và cảm giác, và tận hưởng đến tối đa cái đời sống ấy. Chắc anh đã làm món đầu cừu này ngon đến tận cùng rồi.”

Như Thủy có thói quen nhăn mũi và nếp nhăn hai bên mép sâu thêm mỗi khi chàng hài lòng hoặc vui thích. Chàng trả lời bằng cái giọng dịu dàng, “Anh đã hiểu trọng điểm của tôi. Nếu không có hoa thì không có gì để nói; nhưng vì có hoa thì hoa phải được ngửi. Nếu không có tiếng chim hót thì chẳng có gì để nói; nhưng vì có tiếng chim hót thì chúng ta phải lắng nghe. Vì có đàn bà thì đàn bà phải được yêu thương và trân quý. Vì có một hương vị tuyệt diệu không gì sánh được trong đầu con cừu, thì ta phải lấy ra cho được hương vị ấy để thưởng thức. Như thế con cừu không chết một cách vô ích. Nhưng tôi sẽ không ra tay giết con cừu. Tôi không quan tâm nếu có ai giết cừu. Ðối với tất cả và đời sống con người cũng vậy. Tại sao chúng ta không để yên cho người và vật? Ðó là lý do tại sao tôi không bao giờ làm việc cho nhà nước. Hãy để mặc con người sống. Con người rất tốt… Tôi xin lỗi, tôi nói nhiều quá rồi. Chắc là tôi uống hơi quá chén.”

Mạnh Giao lên tiếng, “Trái lại, tôi hoàn toàn đồng ý với anh. Bây giờ tôi mới biết tại sao anh chị sống hạnh phúc như vậy. Tôi thực tâm dồng ý rằng nếu chính phủ cai trị ít hơn thì con người sẽ hạnh phúc hơn.”

Sau bữa tối, bốn người bước vào thư phòng. Mẫu Ðơn năn nỉ Bạch Huệ cho Mạnh Giao coi những bức vẽ chân dung của nàng. Nàng chọn ra khoảng hai chục tấm. Ðấy là những bức họa nghiên cứu đặc biệt về chân dung. Bạch Huệ dường như cảm hứng hơn trong những bức vẽ nông dân hoặc những người nghèo. Một bức vẽ một người khờ trong làng dường như đem lại cho nàng một sự sảng khoái đặc biệt. Nàng giải thích rằng có nhiều cá tính trên mặt một ngư phủ, người bẫy thú hoặc người chăn cừu tầm thường, hơn là những người giầu có ăn uống no đủ thoả mãn trong thành phố. Những bức vẽ là một sự cống hiến nổi bật cho lòng nhạy cảm của nàng đối với đời sống và cảm xúc và cá tính của người nghèo. Có một sự hứng khởi tuyệt vời trong những bức vẽ một người ăn mày tàn tật, một người ngớ ngẩn, một bà già nhà quê chống chiếc gậy mục đồng. Như Thủy giúp giơ những bức vẽ từng cái một trong cung cách của một người chồng yêu kính vợ. Ðôi khi nàng nói thành thực, “Tôi thích bức này,” và đôi khi nàng bĩu môi trong một thái độ khiêm tốn khi một bức vẽ của nàng được khen ngợi.

Mạnh Giao rất thích thú khám phá ra cặp vợ chồng trẻ này. “Cuộc đời của anh chị thực đáng sống! Thành thực mà nói, tôi không nghĩ nhiều đến cuộc đời có vợ. Nhưng bây giờ tôi thấy anh chị sống như một đôi chim câu rù rì, và tôi có thể thay đổi ý kiến.”

Bạch Huệ nói một cách trầm trọng, “Tôi nghĩ cái làm cho đời đẹp là tình yêu, cái tình cảm đi vào đời từ bên trong chúng ta. Dường như cuộc đời có quá nhiều sự xấu xa, đau khổ – quá nhiều đau đớn và khổ lụy. Anh chị có thể nhìn thấy những con mắt ao ước và những cái miệng đói khát, tất cả kêu đòi một sự thoả mãn. Có quá nhiều giết chóc và thù ghét nhau, trong thiên nhiên cũng như trong con người. Tuy nhiên, trí tưởng tượng trong con người đã tái tạo cuộc đời, bằng cách đưa ra sự phản chiếu của cuộc đời – không phải cuộc đời thực – chúng ta có thể tháo gỡ chúng ta ra, và bằng tình yêu nghệ thuật, chuyển đổi cái xấu xa và sự đau khổ thành một cái gì dẹp đẽ để nhìn.”

Như Thủy nói thêm, “Các bạn thấy đấy, cô ta có cả một lý thuyết về hội họa.” Bạch Huệ trông thật dẹp đẽ dưới ánh đèn, bởi vì nàng rạng rỡ với tình yêu.

Ðó là Bạch Huệ, tất cả con người của nàng. Tuy Mẫu Ðơn cũng cảm thấy giống như Bạch Huệ, nhưng nàng không nói rõ ràng khúc chiết bằng. Bạch Huệ thường có thể giúp Mẫu Ðơn diễn tả những ý tưởng phôi thai chưa rõ về tư tưởng và xúc cảm của nàng. Khi có Bạch Huệ bên cạnh, Mẫu Ðơn có thể nói về những tư tưởng và cảm giác sâu kín nhất một cách dễ dàng, hơn là bên cạnh cha mẹ hoặc em gái.

Bạch Huệ bây giờ ăn nói như một bà chủ nhà tế nhị, “Các bạn có một ngày dài rồi. Tôi chắc các bạn muốn đi nghỉ.” Nàng chỉ vào một bình đầy trà nóng và khách an tâm có đủ mọi thứ cần dùng cho ban đêm. Giường của Mạnh Giao ở trong thư phòng đã làm sẵn, trong khi giường của Mẫu Ðơn đặt ở trong phòng ngủ phụ ngay bên cạnh. Khi Bạch Huệ và Mẫu Ðơn từ giã đi ngủ, trong mắt hai người có những tia nhìn đầy ý nghĩa.

Khi cửa khép lại, Mẫu Dơn hỏi, “Anh có thích bạn em không?”

– Thích vô cùng. Thật là một đôi xứng đẹp!

– Em rất muốn anh gặp họ.

Lần đầu tiên hai người ở riêng một mình. Mạnh Giao có linh cảm chuyện gì sẽ xảy ra. Chàng rất ao ước được gần gũi riêng với nàng. Chàng đã trông thấy một sự gợi ra chớp nhoáng bằng nụ cười trên môi Mẫu Ðơn khi Bạch Huệ bỏ nàng lại. Nhưng chàng cố gắng kiềm chế mình, cảm thấy rằng chàng không nên lợi dụng Mẫu Ðơn, cho đến khi nào nàng bằng lòng đầu hàng.

Hai má của Mẫu Ðơn đỏ bừng lên và nàng tránh nhìn thẳng mắt chàng. Chàng ngồi vào cái ghế của Như Thủy và mở một cuốn sách trên bàn. Nàng bước lại bàn giấy và đứng đối diện với chàng. Khuôn mặt trái soan xinh đẹp, hàng lông mi đen lấp lánh trong ánh sáng dịu của ngọn đèn, và cái bụng tròn của nàng dè tựa vào cạnh bàn. Bỗng nàng cúi xuống và hỏi, “Anh đang xem gì thế?”

– Chỉ là một cuốn sách của Như Thủy.

Mặt hai người gần nhau, và chàng có thể trông rõ con ngươi run rẩy của nàng ngay trước mặt, phô bày một sự hấp dẫn và bí mật có từ ngàn đời. Rồi tay nàng nắm lấy tay chàng, nhìn chàng thật âu yếm. Nàng dường như phấn đấu chống lại một sự xấu hổ bên trong. Chàng khẽ hôn tay nàng và gọi, “Tam muội.”

Nàng bước ra xa và hỏi, “Anh có muốn uống trà không?”

Nàng bước lại chiếc bàn bên cạnh giường, rót một tách trà và đem lại cho chàng. Chàng cũng đứng dậy, bước lại gần nàng. Mắt hai người gặp nhau trong một cái liếc vội và bối rối. Nàng nhìn chàng và nhìn tách nước đang cầm cẩn thận trong tay, để tỏ ra là nàng đang vướng bận. Chàng cầm tách trà, đặt lên bàn. Cánh tay hai người bỗng ôm choàng lấy nhau, cùng một lúc và như bản năng. Môi họ tìm nhau và gắn chặt lại, trong một sự thoả mãn cuồng nhiệt của ao ước và tình yêu. Ðầu nàng tựa vào cổ chàng. Chàng nghe thấy hơi thở gấp của nàng và cảm thấy hơi ấm áp từ cái thân thể mềm mại của nàng. Bỗng nàng ngẩng lên, hai khuôn mặt thật gần và nói, “Gãi lưng cho em. Em ngứa quá.”

Chàng làm theo lời nàng và thò tay vào dưới chiếc áo chẽn. Ðây là một nhiệm vụ bất thường nhất mà chàng được yêu cầu phải làm.

– Tận trên vai ấy. Xin anh nhẹ tay một tí.

Nàng nói và tựa đầu vào vai chàng, và khẽ cười khúc khích. “Về bên trái một chút… Ôi thích quá! … Thấp xuống… thấp xuống nữa.”

Mạnh Giao nghĩ chàng chưa bao giờ gặp một phụ nữ nào giống nàng. Chàng hỏi, “Em uống trà không?” và đưa cho nàng tách trà nàng vừa đem đến, chỉ để tỏ ra chàng đang làm một việc khác.

Nàng cầm lấy tách trà và hít hương thơm. “Còn anh?” Nàng bước lại và rót một tách khác cho chàng. Nàng vừa nhấp trà vừa nói:

– Em không buồn ngủ. Nếu anh chưa đi ngủ, em sẽ ở lại đây một lát.

– Không, chưa tới chín giờ mà. Anh thường đọc sách tới nửa đêm.

– Vậy thì em ở lại.

Mạnh Giao là một người lớn tuổi. Trong khi chàng biết rằng chàng sẽ sung sướng vô ngần nếu chiếm được nàng trọn vẹn, nhưng chàng vẫn chờ đợi sự đầu hàng của nàng – và chỉ khi nào nàng cũng muốn thế. Ðây cũng là do lòng kính trọng nàng như một người em họ. Về phần nàng, nàng đã sửa soạn dâng hiến cho chàng đêm nay, thế mà nàng vẫn tự kiềm chế, vì nàng vẫn yêu thích người đàn ông này từ xa. Chàng rút một điếu thuốc lá và giả bộ như đang đọc một vài lời ghi chép của chuyến đi Phúc Châu.

Nàng bước lại và nằm xoài lên giường bên cạnh tường.

– Nếu anh không bận tâm, em sẽ nghỉ lại đây, trong lúc anh làm việc.

– Anh có làm gì đâu.

Một người đàn ông có thể lúng túng ngượng ngịu hơn người con gái trong những lúc như thế. Phải cố gắng nhiều mới tự cởi bỏ được luân lý và thân xác.

Nàng nắm lấy một cuốn sách từ sau đầu giường và ráng đọc. Dăm phút vụng về của một sự yên lặng hồi hộp trôi qua. Nàng lên tiếng:

– Ðại ca, chắc anh không bực mình em quấy rầy anh. Trước kia có bao giờ anh yêu không?

– Anh nghĩ anh có yêu một lần, lúc anh còn rất trẻ. Anh không muốn nói đến chuyện này. Tại sao em muốn biết?

– Tại vì em muốn biết tất cả về anh.

– Phải, anh có lần yêu một cô gái. Cô ta đẹp lắm. Trời ơi, cô ta thực là đẹp! Nhưng cô ta đã bỏ anh vì một người giầu có. Ðó là kết cuộc của mối tình.

Nàng thở dài thật sâu. “Không có tình yêu nào bằng tình yêu đầu.”

– Phải, em nói đúng lắm. Thoạt đầu anh đau khổ lắm. Rồi anh mau lẹ quên được. Tình yêu với cô ta chỉ là trò chơi. Từ đó anh tránh né đàn bà.

Chàng đã kể lại một chuyện tình vụng về, bởi vì không những chàng khinh tởm mà còn không để tâm tới chuyện ấy. Chàng không biết làm gì nên châm một điếu thuốc. Ðẩy ghế lùi lại, chàng đứng bên cạnh cửa sổ, quay lưng về phía nàng.

Chàng nghe thấy nàng nói, “Ðưa cho em một điếu thuốc.” Chàng quay lại thấy nàng ngồi dậy và lấy mền che người. Chàng đốt một điếu thuốc, lại ngồi trên giường và đưa cho nàng. Không nói một lời, nàng lặng lẽ uốn môi thành một vòng tròn mời gọi và kéo chàng lại. Hai người hôn nhau thật lâu, và nàng uống nụ hôn của chàng như thể đang giải thoát cho một cơn khát dai dẳng và đau khổ.

“Ôi, Mạnh Giao!” Ðây là lần đầu tiên nàng gọi cái tên Mạnh Giao.

Chàng trìu mến vuốt ve mặt nàng. “Tam muội, em không thể tưởng tượng được anh cảm thấy thế nào khi anh phải xa em – trên thuyền, trên đường bộ, trên ngựa, vượt qua những rặng núi cao – anh luôn luôn tưởng tượng có em bên cạnh. Anh dường như mất hồn, như thể đã đánh mất một phần hồn của mình. Anh ao ước một lời nói của em. Anh giữ mấy chữ ngắn ngủi em để lại trên thuyền, chỉ có ba chữ: “Viết cho em”. Mẩu giấy ấy giúp anh nhiều lắm, mấy chữ ít ỏi từ tay em viết ra, và cảm thấy sự hiện diện của em bên anh.”

– Em nhận được hai lá thư tuyệt diệu của anh.

– Anh không bao giờ muốn xa em nữa. Em là của anh – mãi mãi, đời đời.

Nàng gắn một nụ hôn nữa và nói rất tự nhiên, “Em cũng vậy. Tắt đèn đi. Lại đây với em.”

Chàng bước lại tắt đèn. Ánh trăng trong chiếu qua cửa sổ, trắng hơn và rõ hơn ở dưới thung lũng. Chàng bắt đầu cởi áo choàng. Khi chàng nhìn lên, chàng trông thấy nàng đang liệng vớ và quần áo xuống sàn nhà bên cạnh giường, từng cái một.

Rồi thân thể và tâm hồn hai người hoà tan với nhau trong một cơn mê ly ngây ngất của đau đớn và hoan lạc, như thể tất cả sự ao ước của thân xác cuối cùng đã tuôn ra trong một cơn giải thoát tràn ngập. Hai người kết hợp thành một. Âm và dương nhập làm một, bầu trời rung chuyển và tinh tú rụng rời, và không gì còn lại, chỉ trừ sự dâng hiến và vuốt ve lẫn nhau, và cái cảm giác được đưa tới những nơi xa lạ của thời nguyên sơ. Chỉ còn lại cảm giác của da thịt. Dường như hai người đang chết đi trong địa cầu tối đen và trong một cơn đau đớn và hoan lạc vô bờ, như thể trong một cái chết như thế họ có thể trở thành thần thánh. Rồi những cử động dồn dập và quay cuồng như cơn lốc chậm lại, trong khi tay nàng lần mò khắp người chàng, tìm kiếm, mân mê, xoa nắn, và vuốt ve bằng những bàn tay ấm áp, ngọt ngào và thân yêu. Nàng hỏi:

– Anh có thoả mãn không?

– Thoả mãn lắm.

– Em cũng vậy.

Những tiếng rên rỉ khe khẽ, gấp rút và còn trong cổ họng nàng. “Xin anh đừng nghĩ xấu về em. Em chỉ yêu anh – yêu điên cuồng.”

– Em không muốn về phòng của em ư?

– Không.

Và hai người cứ tiếp tục nói chuyện và làm tình. Chàng rất đỗi ngạc nhiên khi thấy cái thân hình nhỏ nhắn của nàng lại tràn trề quá nhiều dục tình cuồng nhiệt đắm say mặn nồng như vậy. Bây giờ trong cái bóng tối lờ mờ trước buổi bình minh, chàng nhìn nàng nằm ngủ, nổi bật nhất là đôi môi cong lên và hàng lông mi dài đen nhánh; cái cửa sổ tâm hồn của nàng khép lại, những cái chớp mau lẹ và cử động của bắp thịt bên dưới mắt nàng lắng dịu thành một buổi bình minh yên lặng trong một vũng nước biển sau một đêm bão tố. Thân thể trắng ngần của nàng là một hình thể hoàn hảo khiến chàng ngạc nhiên mê thích. Lúc ấy chàng yêu nàng biết bao, toàn thể con người của nàng, tinh thần, linh hồn và thân thể nàng. Thay vì là một sự trùng dịu sau cơn thoả mãn, hoặc là một sự dễ chịu và giải thoát từ một gánh nặng của xác thịt, chàng cảm thấy một chiều sâu mới của linh hồn vì đã biết rõ những nơi kín đáo nhất trên thân thể nàng; đó là một sức mạnh mới, bởi vì sự hợp nhất của hai người không phải chỉ là một sự thoả mãn nhục dục, mà là sự thần phục hoàn toàn của hai tinh thần đã được tạo ra cho nhau. Ðêm nay đã cho chàng một kích thước mới về tình yêu mà trước kia chàng không biết và không nghĩ là có thể có được; chàng khám phá một chiều sâu mới về con người chàng, trước cái ánh sáng và sức mạnh mà nàng đã dâng hiến chàng, và làm ngập hồn chàng.

Chàng đốt một điếu thuốc và thấy đồng hồ đã chỉ bốn giờ. Chàng khẽ vỗ vai nàng, và gọi:

– Tam muội. Em nên về phòng của em đi, để giữ thể diện bề ngoài.

Nàng chỉ trả lời, “Không về. Ở đây ấm quá,” rồi lại ngủ tiếp.

Mãi tới gần sáng khi con gà trống nhà người nông dân bên cạnh gáy sáng, chàng mới có thể khuyến dụ nàng miễn cưỡng trở về giường riêng của nàng.

*

Vì còn trẻ, nàng thức giấc vào lúc tám giờ sáng mà không mệt mỏi gì. Mọi người đã dậy rồi, vì Như Thủy là người quen dậy sớm, và Bạch Huệ làm một cố gắng đặc biệt để dậy sớm ngày hôm nay.

Mẫu Ðơn không cần son phấn. Ngay khi rửa mặt xong, nàng bước ra bàn điểm tâm, tươi như một bông hoa cúc. Bạch Huệ đang ngồi một mình tại bàn ăn. Nàng ngẩng lên nhìn Mẫu Ðơn và hỏi bằng một nụ cười bí mật, “Xảy ra chưa?”

Mẫu Ðơn mỉm cười gật đầu.

– Không cần phải bảo tôi cũng biết ngay mà. Chị có cái vẻ tuần trăng mật trên mặt.

Ngay sau đó hai người đàn ông bước vào. Không ai nói một điều gì bất tiện. Họ bàn về chuyến đi chơi đến chỗ câu cá nổi tiếng, cách nhà khoảng nửa dặm. Như Thủy nói:

– Không biết đất trồi lên hay là biển thụt xuống ba chục thước trong hai ngàn năm qua; nếu không thì Yên Tử Linh không thể câu được con cá nào tại chỗ ấy.

Mạnh Giao cười một cách ranh mãnh. “Chúng ta có ba ngôi mộ Lý Bạch, tất cả đều được coi là mộ thực của ông ta. Người ta tin cái họ muốn tin.”

Bạch Huệ xen vào, “Tình cảm mới là điều quan trọng. Yên Tử Linh có thể không ngồi câu tại đúng chỗ ấy. Nhưng người ta muốn chứng tỏ lòng yêu mến kính trọng cho một nơi ẩn dật nổi danh.”

Khoảng mười giờ, mọi người ra đi. Tuy nhiên tới chỗ khe núi, một cơn gió cuồng gây khó khăn nếu cứ tiếp tục. Mẫu Ðơn nói:

– Tôi không muốn đi nữa.

Nàng không quan tâm đến việc đi thăm một thắng cảnh lịch sử. Nàng sống quá nhiều trong hiện tại nên không còn cảm giác cho quá khứ.

Bạch Huệ biểu đồng tình, “Nếu chị không đi thì để đàn ông đi thôi. Tôi đã thăm chỗ ấy nhiều lần rồi.”

Trong lúc Như Thủy và Mạnh Giao tiếp tục đi thì hai người đàn bà quay về nhà. Hào quang của ái ân đêm trước vẫn còn bao phủ mặt Mẫu Ðơn.

– Chị nói đã chia tay với Tần Châu rồi. Anh ta phản ứng thế nào?

– Chàng không có lựa chọn. Chàng hỏi tôi tại sao, và tôi không thể đưa ra lý do. Tôi chỉ bảo chàng tôi yêu một người khác. Chàng vẫn không tin. Chàng không thể đoán là Lương Hàn Lâm. Dĩ nhiên khi một người con gái nói “Tôi yêu một người khác” hoặc “Tôi không yêu anh nữa”, thì người đàn ông có thể làm gì, ngoại trừ chấp nhận thua cuộc?

– Chị không nói chị không còn yêu anh chàng nữa.

– Ðúng như vậy.

– Nhưng làm sao chị có thể như thế, sau những năm vừa qua? Ðiều đó không đúng.

– Ðúng mà… Khi tôi rõ ràng thấy chàng không thể ly dị vợ được, thì tôi sẽ làm gì? Sống làm người tình cho chàng ư? Chàng đề nghị chuyển về Hàng Châu để chúng tôi gặp nhau thường hơn. Tôi phải giải quyết. Tôi có thể làm gì trừ ra nói rằng tôi không yêu chàng nữa?

– Dĩ nhiên chị không có ý ấy.

– Tôi rất buồn cho chàng. Chàng giận lắm. Chàng trả lại tôi lọn tóc, và đốt thư của tôi. Chàng rút hình tôi ra khỏi ví, và trả lại tôi.

– Tôi nghĩ anh ta sẽ làm như vậy. Anh chàng chắc đau đớn lắm.

– Ðau lắm… nhưng cuối cùng chúng tôi chia tay như hai người bạn.

Bạch Huệ im lặng một lát. Rồi nàng nói, “Tất cả những cái đó chẳng có nghĩa gì cả. Anh ta chỉ tức giận thôi. Tôi không tin anh ta hết yêu chị, và chị cũng không thể hết yêu anh ta.”

Hai ngưòi tiếp tục nói về chuyến đi Bắc Kinh của Mẫu Ðơn, cho đến khi hai người đàn ông trở về. Buổi chiều, Bạch Huệ đề nghị đi thăm một con suối ưa thích nhất của nàng, nơi nàng thường tới để vẽ phác. Gần con suối là một cái thác nhỏ, chỉ cao khoảng hơn hai thước, mà nàng gọi là “thác của tôi”, và bên dưới cái thác là một vũng nước chỉ dài hơn bảy thước, nơi Như Thủy thích ra ngâm nước vào mùa hè. Chỗ ấy cảnh rất đẹp và vắng vẻ. Những tảng đá trắng sạch sẽ nghiêng xuống dòng nước, và hai bên bờ, thông và tùng mọc xanh um.

Bạch Huệ nẩy ra một ý nghĩ nên thơ, tổ chức một buổi chơi ngoài trời và nướng cá ngay bên bờ suối, vì nàng biết bạn nàng thích ý kiến đó lắm. Như Thủy mua vài con cá chép trong làng, và bây giờ nàng lo nhóm lửa. Khi lửa cháy đỏ hồng, nàng đem cá ra nướng, từng con một trên ngọn lửa. Những con cá chép này rất nhỏ, chỉ dài vài phân; Mạnh Giao rất thích thú cái vẻ nghiêm trọng trẻ con của Bạch Huệ trong việc nướng những con cá nhỏ ấy.

Như Thủy bật cười. “Chỉ có vài miếng thôi, không đáng công đâu. Anh đã mua mấy con cá cốc khô tẩm đường rồi.”

Bạch Huệ có vẻ bị tự ái và nói, “Thôi, xin làm ơn im lặng!” Mắt nàng rớm lệ.

Cả bốn người ngồi quanh một tảng đá bên cạnh con suối và bắt đầu ăn. Cá thật là ngon, nhưng mỗi con chỉ được vài miếng. Như Thủy sửa soạn mở bọc cá khô thì Bạch Huệ chặn lại:

– Xin đừng. Em muốn hôm nay là một kỷ niệm đặc biệt và anh lại sắp sửa làm hỏng rồi.

Như Thủy không hiểu một người đàn bà có thể nghĩ thế nào khi ăn cá khô trong một buổi đi chơi ngoài trời. Chàng làm lành bằng cách vỗ vai nàng một cách trìu mến lặng lẽ, và cọ mũi vào tóc nàng.

Bạch Huệ vẫn còn bực mình và nói, “Ðứng đắn một tí nào.” Nhưng hiển nhiên nàng thích được Như Thủy săn sóc yêu thương như thế.

Mẫu Ðơn bảo Mạnh Giao, “Anh, hãy lội xuống suối đi. Chúng ta nên bỏ mặc hai người tình ở lại.”

Mạnh Giao hỏi, “Chúng ta đi về hướng nào?”

– Có một chỗ bên dưới rất tốt, từ đó chúng ta có thể nhìn thấy tất cả thung lũng bên dưới.

Nàng cầm tay dẫn chàng đi theo một lối đi dọc theo bờ suối, bước đi trước trong cái dáng vẻ trẻ trung nhún nhẩy. Mạnh Giao chưa bao giờ biết một người đàn bà đầm ấm lộng lẫy, độc lập và lạ kỳ như thế.

– Em biết chỗ này hả?

– Phải, em đã đến đây rồi.

Hai người đi chậm lại, hai cánh tay quàng ôm nhau, hai thân thể sát vào nhau. Nàng hỏi:

– Anh có sung sướng không?

– Từ trước anh chưa bao giờ sung sướng hơn thế này. Ðây là một nơi quy ẩn tuyệt vời. Anh nghĩ rằng khi chúng ta sống ở Bắc Kinh cùng với em gái của em, chúng ta phải thận trọng hơn.

– Em không lo chuyện ấy. Em là chị nó, và em có tự do của em. Nó sẽ biết hết chuyện tình của chúng ta – nó phải biết. Nhưng em chưa thấy người nào bình tĩnh như Hải Ðường. Nó không bao giờ nói bậy bạ, hoặc để một lời vụng về ra khỏi miệng.

Nửa đường xuống con suối là một tảng đá bằng phẳng nhô ra dòng nước. Mẫu Ðơn đề nghị:

– Hãy trèo lên ngồi trên tảng đá này.

Hai người ngồi sóng vai nhau, hôn nhau và nhìn cảnh hoàng hôn ngả từ màu vàng rực rỡ sang màu tím và xanh đậm, trong lúc ngôi làng bên dưới đã nằm trong bóng tối.

Khoảng gần một giờ sau, hai người nghe tiếng Bạch Huệ gọi. Mẫu Ðơn ngồi dậy và trông thấy vợ chồng bạn bên trên. Bạch Huệ cho biết họ định đi về nhà. Mẫu Ðơn vẫy tay cho họ và la thật to, “Anh chị về nhà trước đI.”

Nàng ngồi xuống rất sung sướng. “Bây giờ anh có thể nhìn quanh, và không thấy một người nào khác trong vũ trụ này, ngoài chúng ta.” Nàng nằm xuống tảng đá, co hai chân lên, trông thật là thỏa thích. Chàng cúi nhìn nàng và trông thấy đôi mắt nâu của nàng phản chiếu bầu trời có những vệt tối và trở thành một bầu trời màu lục.

– Anh không thể tìm được một nơi nào hay hơn chỗ này.

Bỗng nàng nhỏm dậy và nói, “Nào đi.”

Mạnh Giao ngạc nhiên hỏi, “Ði đâu?”

Nàng đưa tay cho chàng nắm, cùng nhảy xuống tảng đá và đi bộ dọc bờ suối. Nàng dẫn chàng tới một bãi cỏ quang kín đáo và bên ngoài không thể nhìn thấy. Nàng nằm dài lên cỏ. Lúc ấy nàng trông giống một nữ thần của rừng xanh, nhìn chàng trân trối, hoặc nhìn những đám mây hồng đậm trôi cao trên bàu trời đang tối dần. Nàng thì thầm:

– Thật là thần tiên!

Mạnh Giao cảm thấy trọn vẹn sắc đẹp và tuổi trẻ của nàng. Chàng ngồi xuống, ngắm nàng thật gần, trái tim chàng tràn đầy một áp lực mạnh mẽ. Chàng nói:

– Thực là tuyệt vời.

– Cái gì tuyệt vời?

– Giây phút này – ở đây với em…

Nàng quay lại, lặng lẽ chăm chú nhìn chàng, ngực nàng nhấp nhô thực rõ ràng. Nàng nói:

– Anh làm em bị khích động.

– Em là ma quỷ.

Chàng đổi thế ngồi và gục đầu vào ngực nàng, lắng nghe tiếng thì thầm ngọt ngào của nàng. Chàng nói, không nhìn nàng, “Em biết chuyện này sẽ xảy ra khi em dẫn anh xuống đây, đúng không?”

Nàng gật đầu. Sự chống đỡ của chàng xụp đổ. Kể từ đêm hôm qua, mối liên hệ giữa hai người thay đổi hẳn; không còn sự e thẹn và giới hạn nữa. Hai người đã trở thành bình đẳng với nhau, chàng hoàn toàn là một người đàn ông và nàng hoàn toàn là một người đàn bà. Nàng vuốt ve đầu chàng đang tựa trên ngực nàng và nói, “Hãy tử tế với em. Hãy làm hôm nay thành một ngày đáng ghi nhớ cho em.”

Khi cuối cùng hai người ngồi dậy, một ngày tháng Chín ngắn ngủi đã trở thành hoàng hôn. Nàng lên tiếng:

– Chúng ta phải về nhà. Họ đang chờ chúng ta về ăn tối.

Nàng cố vuốt lại mái tóc cho gọn ghẽ. Chàng hôn nàng và cám ơn nàng.

– Cám ơn cái gì?

– Vì đã cho anh quá nhiều tình yêu, quá nhiều hoan lạc.

– Ðàn ông các anh lầm rồi. Anh nghĩ đàn bà chỉ biết cho khoái lạc, và quên rằng đàn bà chúng em cũng thích như đàn ông các anh.

Khi nàng ngồi dậy để sửa soạn, chàng trông thấy vai áo nàng có dính những vết màu cỏ; khi chàng nhặt một con đom đóm bị đè bẹp trong háng nàng, nàng đập vào tay chàng và nói:

– Cái anh này kỳ quá!

– Tam muội, từ khi biết em, mỗi ngày anh một yêu em hơn. Cơn nổi hứng bất ngờ của em đã đưa anh xuống đây.

– Ðó là vì em yêu anh, vì anh gây kích thích cho em.

Bây giờ nàng mặc quần áo xong rồi. Khi hai người bước ra khỏi chỗ rừng trống, chàng nói, “Với bản chất của em, anh nghĩ em sẽ là một người vợ tốt, trung thành với chồng mãi mãi, hoặc là một người con dâu kiểu mẫu.”

Nàng lắc đầu và trả lời bằng thái độ ngay thẳng thường lệ của nàng. “Một người con dâu ngoan thì có lẽ được; nhưng một người vợ trung thành thì không.”

– Em muốn nói…

– Có thể không phải. Nếu em yêu chồng em, thì em sẽ là người vợ trung thành. Nhưng em không yêu chồng. Em ghét anh ta…

– Làm thế nào em không trung thành trong một đời sống kín cổng cao tường như thế?

– Nếu muốn thì bao giờ cũng có cách.

– Em dám thế à?

– Em có thể liều lĩnh tất cả cho anh ấy.

– Anh ấy là ai?

– Xin đừng hỏi em. Chuyện đó vẫn còn đau đớn. Hãy để chuyện này là một bí mật của em.

Mạnh Giao đi bên cạnh nàng, cảm thấy toàn thân nàng dường như run rẩy.

– Anh sẽ không hỏi nữa.

Nhưng mắt nàng đã ướt; nàng thở dài não nuột. “Ôi, em yêu anh ấy lắm! Nhưng đó là chuyện quá khứ và đã qua rồi. Ðó là trước khi em gặp anh…”

Mạnh Giao lặng lẽ nghe nàng nói, và nghe thấy nàng nói tiếp, “Ðại ca, bây giờ em chỉ yêu một mình anh, không ai ngoài anh ra…” Giọng nàng như năn nỉ, “Xin đừng hỏi em. Chuyện ấy vẫn còn đau kinh khủng.”

– Vậy thì anh không muốn biết nữa. Anh chỉ có ý hỏi sao em có thể đối phó với chuyện đau lòng ấy?

– Em đã nói với anh, khi nào muốn thì bao giờ cũng có cách.

Chàng không dò hỏi gì thêm nữa. Tay trong tay, hai người quay trở lên núi trong cái bóng tối buông xuống mỗi lúc một nhanh. Khi họ về tới nhà, bầu trời đã hoàn toàn tối đen. Bữa ăn tối đang chờ họ.

Một sự bình thản đã ngự trị tâm hồn Mẫu Ðơn, một sự bình thản của niềm hân hoan lặng lẽ. Mối tình bí mật đã giúp nàng không cần một điều gì khác, và đã thay đổi màu sắc cuộc đời quanh nàng. Nàng đã toại nguyện. Nàng cám ơn cha mẹ đã để nàng đi. Nàng cho mọi người biết nàng và em gái sẽ đi Bắc Kinh với Lương Hàn Lâm, và vô cùng tội nghiệp cho những kẻ ngồi lê đôi mách, quá bận rộn với những bổn phận cũ lâu đời của một ngày, đến nỗi không biết dừng lại và tự hỏi họ đang làm gì. Chuyến đi Bắc Kinh là một cánh cửa mở vào một đời sống mới, cuộc phiêu lưu tinh thần, giải thoát cho nàng, và tìm kiếm một cái gì mới lạ chưa biết.

Mọi chuyện tiến hành tốt đẹp. Trong một buổi tiệc của gia tộc, mọi người đều biết hai chị em, Tam muội và Tứ muội, sẽ đi Bắc Kinh. Ðây là một tin quan trọng. Hai chị em được giới thiệu với Nghi thân vương, quan Tuần Vũ, và được ngồi tại bàn dành cho khách danh dự và Nghi thân vương.

Trong bữa ăn, một lần Nghi thân vương nói với cha mẹ Mẫu Ðơn, “Bất cứ khi nào ông bà cần giúp đỡ gì, xin cứ lại gặp thẳng tôi.” Ðó là một cử chỉ tử tế, dùng để kết chặt tình thân hữu giữa ông ta và nhà học giả danh tiếng, nhưng cũng rất có lợi cho nhà họ Lương, trong trường hợp bị rắc rối. Người dân nằm dưới quyền sinh sát của giới thư lại chậm chạp và thiển cận, trừ một số người có thể gặp thẳng quan Tuần Vũ.

Thực là một cơ hội vinh dự cho gia tộc khi ông Tô xác nhận quan Tuần Vũ sẽ đến dự tiệc của gia tộc. Vào những ngày ấy, khi quan Tuần Vũ từ dinh đi ra, trống phải đánh báo hiệu từ hoa viên bên trong. Kèn trống náo nhiệt và ba bánh pháo lớn nổ ròn tan lúc ông ta khởi hành, bước lên chiếc kiệu bọc nỉ xanh có bốn phu kiệu khiêng, quân lính và kỵ mã dẫn trước. Cái quang cảnh hào nhoáng và sự kính trọng của dân chúng rất cần thiết cho chính quyền. Người dân phải tránh đường và đứng bên lề, sững sờ kính cẩn khi quan Tuần Vũ đi qua. Cả thành phố biết rằng Nghi thân vương là bạn của nhà họ Lương.

Nhà họ Lương đã mượn một biệt thự bên bờ hồ, có một ban công dài sơn đỏ bao quanh bờ một ao sen, tại đó khách có thể ngồi thưởng hoa xem cá.

Có vài bài diễn văn trước bữa tiệc. Bài diễn văn của Nghi thân vương ngắn ngủi, đầy những lời của quan trường và hết lời ca ngợi quan Hàn Lâm. Khi Mạnh Giao nói, một sự im lặng bao trùm khán giả. Các bà mẹ giữ con cái im lặng và nói, “Quan Hàn Lâm đang nói.” Lời nói ấy có ma thuật khiến trẻ con cảm thấy sợ hãi. Những con mắt thán phục hướng vào nhà học giả, người duy nhất trong gia tộc được phong chức này trong cả một thế kỷ, và là sự thèm thuồng của các gia tộc khác. Bắp thịt trên má Mạnh Giao rung động, lông mày nhíu lại và dãn ra mau lẹ. Chàng cảm động. Bữa tiệc gia tộc này có ý nghĩa đối với chàng hơn là những bữa tiệc tại Bắc Kinh. Chàng bắt đầu lên tiếng, “Không đâu quý bằng chốn quê hương.”

Hàng lông mày rậm của chàng nhăn lại và giọng của chàng khẽ rung lên. Bà dì của chàng ngồi bên cạnh, hãnh diện và sung sướng. Mỗi lúc chàng càng nói hùng hồn hơn. Ñt người hiểu chàng khi chàng nói về tư tưởng của quan Ðại học sĩ Trương Chi Ðông “Sức Mạnh Qua Sự Học.” Chàng nói rằng một quốc gia vĩ đại bao giờ cũng có thể thay đổi và điều chỉnh để đương đầu với một hoàn cảnh mới, rằng Trung Hoa hiện nay đang gặp phải một cảnh như thế, rằng Trung Hoa đã yên ổn về phía biển cả và đã xây Vạn Lý Trường Thành để phòng vệ hiểm họa từ phương bắc, nhưng bây giờ sự đe dọa đến từ biển cả và Trung Hoa phải mau lẹ thích ứng học hỏi, và phải học hỏi thật nhanh, nếu không những sự nhục nhã khác sẽ xảy ra, như trận Chiến Tranh Nha Phiến, vụ Cướp Phá Cung Ðiện Mùa Hạ, và mất Ðông Dương vào tay người Pháp. Chàng nhấn mạnh, “Vạn Lý Trường Thành không còn hữu dụng nữa. Người ngoại quốc trước kia Trung Hoa chưa hề biết, đã tới biển Trung Hoa. Pháo thuyền, pháo thuyền, và pháo thuyền đã khinh thị sóng biển. Trung Hoa đang gặp một hoàn cảnh chưa từng có trong lịch sử.”

Bài diễn văn của Mạnh Giao biểu tượng cho tinh thần cải cách do một số nhà tư tưởng nêu ra và hiện nay do Trương Chi Ðông chủ xúy. Họ Trương đang đưa ra bài luận thuyết nổi tiếng, “Sức Mạnh Qua Sự Học.”

Nghi thân vương không ở lâu tới cuối bữa tiệc. Khi ông đứng lên xin cáo từ, tất cả khách đứng dậy tỏ lòng tôn kính, và bữa tiệc phải ngừng lại. Khi Nghi thân vương vừa ra về rồi, sự ồn ào hỗn loạn lại tiếp tục.

Hải Ðường hỏi Mạnh Giao vào lúc tiệc tàn, “Làm sao anh biết tiếng Mãn Châu? Em nghe thấy anh nói tiếng Mãn Châu với Nghi thân vương.”

– Anh học một thổ ngữ Mông Cổ, khác với tiếng Mãn Châu. Nhưng tiếng ấy cũng có cùng mẫu tự như tiếng Mãn Châu. Nếu anh có mẫu tự rồi anh có thể học. Nhưng người Mãn Châu thích nói tiếng Trung Hoa.

– Tại sao?

– Bởi vì tiếng Trung Hoa là ngôn ngữ của văn hoá, triết học và thi văn. Người Mãn Châu nói tiếng Trung Hoa hay hơn chúng ta. Nhã Lan, một thân vương Mãn Châu là một nhà thơ và viết tiếng Trung Hoa. Ôi, những vần thơ và cảm xúc thật rung động! Anh sẽ dạy em thơ của Nhã Lan. Em không thể hiểu hết được thơ của Nhã Lan, trừ phi em hiểu được cuộc đời tình ái của ông ta.

Một tia sáng lóng lánh trong đôi mắt tròn và rực rỡ của Hải Ðường. Mọi thứ Mạnh Giao chỉ dạy cho chị em nàng đều mới lạ và khích động. Nàng thật là may mắn được theo chị đi Bắc Kinh và được nghe chàng nói hàng ngày.

*

Mặc dù nỗi buồn của sự chia ly và một vài sự nghi ngại về Mẫu Ðơn, cha mẹ nàng rất sung sướng cho hai cô con gái. Họ nghĩ rằng đây là một cơ hội rất hiếm hoi cho các con, và hy vọng tin tưởng Mạnh Giao sẽ kiếm chồng cho Mẫu Ðơn và Hải Ðường. Về mặt khác, các vấn đề của đứa con gái goá bụa cũng thoát khỏi tay họ. Ông bố nói với Mạnh Giao:

– Chú thấy hai con gái của chú thực là may mắn có được một sư phụ như cháu, và chú hy vọng hai đứa sẽ học hỏi được nhiều trong thời gian ở Bắc Kinh dưới sự chỉ dạy của cháu.

Bà mẹ nói, “Thím tin tưởng giao hai đứa con gái cho cháu.” Trái tim bà ta tan nát khi trông thấy hai người con gái trưởng thành rời nhà ra đi lần này. Mạnh Giao trả lời:

– Cháu sẽ săn sóc Mẫu Ðơn cẩn thận. Cháu tin rằng Hải Ðường có thể tự lo liệu cho mình được.

Mẫu Ðơn vội hỏi, “Anh nói thế nghĩa là gì?”

– Anh muốn nói anh sẽ săn sóc em và trông cậy em gái của em săn sóc anh.

Hải Ðường có vẻ hăng hái, “Ý anh muốn nói giặt giũ và nấu nướng, phải không? Và anh không lo cho em?”

Bà mẹ khẽ rầy, “Không được hỗn với Ðại ca.”

– Không, cháu thích như thế. Cháu không mong đợi hai em sẽ phải giữ hình thức lễ nghi nếu hai em phải sống trong cùng một nhà với cháu.

Ðêm hôm trước ngày khởi hành, khi chỉ có riêng hai chị em, Mẫu Ðơn nói, “Em, chúng ta đi cùng với nhau. Chị vui mừng em có thể đi cùng với chị. Chị chắc rằng em hào hứng lắm.”

– Dĩ nhiên. Ði Bắc Kinh mà!

– Ðừng nói với mẹ, nhưng chị sẽ nói cho em biết vì là chị em. Chị yêu anh ấy và anh ấy yêu chị. Nghe rõ chưa?

Hải Ðường trả lời bằng giọng bình thường, “Em nghĩ em đã cảm thấy như thế. Mẹ cũng vậy.”

Mẫu Ðơn đặt một ngón tay lên môi. “Im lặng, hãy để mẹ nghĩ cái mà mẹ thích, nhưng đừng nói ra. Chị chỉ nói với em thôi. Chị yêu anh ấy điên cuồng – chị muốn nói, chị sẽ sống cuộc đời riêng của chị và em sống cuộc đời riêng của em.”

– Ý chị muốn nói là em sẽ không nên xen vào, phải không?

– Ðúng vậy.

– Nếu đấy là sự lo lắng của chị thì em bảo chị nên quên đi. Em sẽ tự lo cho thân em.

– Ðại ca nói em có thể làm như vậy.

Giữa hai chị em đã có một sự thông cảm. Họ nằm trên giường, mỗi người suy nghĩ riêng tư. Một lát sau, Hải Ðường nói, “Chị sẽ không làm anh ấy đau khổ, phải không? Chị phải nghĩ đến anh ấy, phải bảo vệ danh tiếng của anh ấy… “

– Hừ, em làm chị muốn bịnh.

– Thôi, ngủ ngon.

– Ngủ ngon.

Thực là một sự hy sinh cho bà mẹ phải để hai cô con gái đi xa. Hải Ðường là con cưng của ông bố. Nàng là hiện thân của Tây Hồ, và người chị là dòng sông Tiền Ðường nổi sóng; những đợt sóng thủy triều nổi tiếng của sông Tiền Ðường chưa bao giờ làm nước Tây Hồ phải cau mặt. Trẻ hơn chị ba tuổi, Hải Ðường đã hoàn toàn là một người trưởng thành, có khả năng trực giác phải làm gì và không nên làm gì, phải nói gì và không nên nói gì. Nhưng mẹ nàng có tâm hồn giầu tưởng tượng hơn; bà sống một cuộc đời tuyệt vọng lặng lẽ, không buồn không vui, nên có lòng thiên vị Mẫu Ðơn hơn, như thể là trong những phiêu lưu của Mẫu Ðơn, bà sống lại cái quãng đời trẻ trung của bà. Ðiều này chứng tỏ trong mọi việc làm của bà, trong cái vườn hoa nhỏ một cách tội nghiệp mà bà muốn biến thành một khoảng trống tự do sau nhà, trong những khúc nhạc ngắn mà bà hát với con gái trong lúc ông chồng vắng nhà.

Ba người dùng tầu thủy của người Anh tới Thượng Hải, và sau đó là Thiên Tân. Hai chị em hằng ao ước được đi tầu của người ngoại quốc nên Mạnh Giao phải bỏ thành kiến ghét biển cả. Dẫu sao, dùng đường thủy họ sẽ tới Bắc Kinh nhanh hơn – vào cuối tháng Chín, trước khi mùa đông thực sự tới.

Mạnh Giao không có ý định trở thành một chuyên gia về hàng hải. Một ông quan văn thì học được những bí mật gì của hải quân tân thời? Nhưng chàng được giao một công vụ, và ngoài ra còn cái ý tưởng của Trương Chi Ðông rằng sự đe dọa Trung Hoa bây giờ đến từ biển cả, chứ không đến từ các sa mạc Mông Cổ như trước kia. Với một tâm trí sáng suốt và học hỏi, chàng cố tìm hiểu những gì mới lạ. Trong cuộc hành trình, chàng nói chuyện với thuyền trưởng qua một thông dịch viên. Viên thuyền trưởng là một ngưòi Thụy Ðiển cao lớn đội mũ trắng, và có nhiều kinh nghiệm về hàng hải. Chàng rất chú ý đến cái phong vũ biểu, viễn vọng kính và thước đo cung 90 độ. Chàng biết không thể coi thường người Tây phương về bất cứ phương diện gì, nhất là khi những họng súng của họ có thể bắn ra hoả lực sấm sét. Chàng thận trọng thu thập sự kiện làm báo cáo cho Trương Chi Ðông. Trên tất cả, là một học giả về địa lý lịch sử, chàng rất thán phục hệ thống hải đăng, phao nổi và bản đồ chính xác của tây phương. Trong thời gian ở Thượng Hải, chàng mua một cái phong vũ biểu làm quà tặng Trương Chi Ðông. Sau đó khi tới Thiên Tân, chàng thăm viếng chiến lũy Ðường Cô, và thận trọng lần mò con đường mà binh sĩ Anh Pháp tiến từ Ðại Cô và Ðường Cô vào Bắc Kinh năm 1860, một cuộc tiến quân chấm dứt bằng sự cướp bóc và đốt cháy Cung Ðiện Mùa Hạ. Trong triều đình giữa giới quan lại vốn suy nhược mệt mỏi, hành động chậm chạp, và thiển cận, nhưng không ngừng tranh dành quyền lực, Mạnh Giao là một trong số ít ỏi những người cảm thấy sự cấp bách phải cải cách.

Khi chiếc tầu thủy từ từ lướt vào sông Hoàng Phố để đến Thượng Hải, một ngọn gió tây bắc thổi khói đen từ ống khói tuôn ra một màu trắng như bọt. Mẫu Ðơn và Mạnh Giao đứng tựa lan can tầu, ngắm nhìn khói ùa ra trên sóng nước. Mắt Mẫu Ðơn nheo lại và khẽ kêu lên, “Ôi thần tiên quá!” Hai bên bờ là từng dẫy nhà kho, xưởng thợ, và chòi làm bằng thiếc uốn cong. Trên sông đầy thuyền tam bản, thuyền buồm và thuyền đánh cá. Con tầu chậm chạp lướt qua, hú còi để báo động cho biết đang vào bến. Không sợ hãi, các thuyền nhỏ sấn vào để lượm những vỏ hộp, chai lọ, rau cỏ và bánh thừa vất xuống, trước khi những con chim biển nhào tới. Hai pháo thuyền Anh và Pháp buông neo gần bờ, tuy nhỏ bé nhưng có một vẻ đẹp đầy sát khí, cái lý lẽ bất bại của một nền ngoại giao bằng sức mạnh.

Bến cảng dài gần một dặm, đằng sau lừng lững những toà nhà cao, gồm cả khách sạn Palace và ngân hàng Hương Cảng Và Thượng Hải, xây bằng đá với những cửa sổ bằng kiếng. Cuối bến cảng là cầu Hồng Kiều. Rồi họ có thể nghe thấy những âm thanh của thành phố và trông thấy xe kéo xe ngựa chạy qua chạy lại. Từng đoàn khách bộ hành đông đảo, đàn ông mặc áo trường bào tóc để bím dài đầu đội nón chóp đen, đàn bà chập chững trên những bàn chân bó nhỏ, tay cầm tẩu thuốc dài. Các thiếu nữ ăn mặc màu sắc tươi hơn; màu hồng, lam ngọc, và xanh tía là những màu ưa chuộng nhất thời ấy.

Vào thời đó, Thượng Hải là một trung tâm thương mại của cả đông phương và tây phương, nơi khởi đầu của một cuộc mạo hiểm lớn về ngành dệt và thuốc lá, và tìm kiếm đậu nành và trà, một làn sóng đổ ập tới của một nền văn minh hiếu động, tràn lên bờ của đại lục cổ. Mạnh Giao hơi hoảng sợ.

Họ mướn hai phòng tại Phúc Châu Lộ. Phúc Châu Lộ là một sự kéo dài liên tục của những cửa tiệm nhỏ, tại đó người ta có thể mua được bất cứ cái gì, từ dù tới xạ hương của Tiểu Á, từ những bức thêu tuyệt xảo của Nam Kinh và nhung lụa Tô Châu, tới sừng nai Hắc Long Giang và sâm Cao Ly. Hai chị em trông thấy Mạnh Giao mua sâm tới ba bốn trăm quan làm quà cho thân hữu. Họ tới một tiệm Quảng Ðông chuyên khắc ngà voi, những đồ vật bằng mai rùa, hổ phách Ba Tư, và hương trầm Cao Miên. Xa hơn nữa, về phía trường đua, là khu bình khang nổi tiếng với các ca kỹ người Tô Châu. Những gái thanh lâu này giúp cho các quán rượu phồn thịnh. Các kỹ nữ này được mời tới giúp vui các bữa tiệc, ngồi trên lòng các á mẫu trên những xe kéo riêng, những bộ mặt mỉm cười thoa hồng của họ chói lòa trong ánh sáng của những đèn đường đốt bằng dầu. Họ đã tạo ra sinh hoạt náo nhiệt cho Phúc Châu Lộ về ban đêm.

Ba người ăn tối tại tiệm Hồng Phát Lầu, trong phòng riêng. Một cô gái nhỏ rách rưới khoảng mười hai mười ba tuổi, mặt xanh xao đói khát vén màn lên và xin được hát giúp vui. Mạnh Giao hỏi hai chị em muốn chọn bài hát nào, nhưng cả hai đều từ chối. Cô bé năn nỉ mãi, nên Mạnh Giao tội nghiệp, bảo cô bé hát một bài tình ca Giang Nam. Thực là đau lòng nghe thấy một cô bé đói rách chưa tới mười ba tuổi hát một bài phong tình. Một người đàn ông gầy guộc rách rưới đứng bên cạnh, hiển nhiên là thân phụ cô gái.

Khi hát xong, cô gái xin uống nước. Người ta không tin cô gái hiểu được ý nghĩa của bài hát. Cô bé chỉ biết đây là bài hát của một người con gái bán thân, và mỗi lần hát cô được thưởng sáu đồng xu. Tội ác và sự sa đọa của thành phố đã vẽ trên mặt cô gái.

Mẫu Ðơn nói, “Tội nghiệp con bé. Hãy cho nó thêm tiền.” Mạnh Giao cho con bé thêm sáu xu nữa. Bộ mặt xanh xao mệt mỏi nở ra một nụ cười và biến mất sau tấm màn.

*

Những tiếng còi hú liên tục và tiếng kêu của bánh xe bên bức tường thành báo cho hai chị em biết rằng họ sắp tới Bắc Kinh. Phía bên phải, cách một cái hào rộng hơn mười thước là bức tường thành lâu đời hàng thế kỷ, bên trên phân chia thành từng khúc, có những chòi canh để đặt súng phòng thủ.

Lần này đến lượt Hải Ðường hào hứng, trong khi người chị chỉ mỉm cười trong một trạng thái hài lòng. Mạnh Giao nói:

– Chúng ta sẽ tới nơi trong năm phút nữa.

Mẫu Ðơn phê bình, “Sao mà rộng mênh mông!”

– Dĩ nhiên là kinh đô rộng lớn rồi.

Toà thành cổ đứng đó, một khối gạch xám khổng lồ đứng cao từ mười lăm tới hai mươi thước và trải dài ra hàng dặm. Là kinh đô cổ, cái tên Bắc Kinh vang lên như ma thuật trong tai hai chị em. Ðối với hai chị em thì đây là một giấc mơ đã thành sự thực. Người ta không thể bàn cãi về Bắc Kinh, người ta phải tìm nó và chấp nhận; người ta ôm choàng lấy nó, và có người say mê nó.

Xe lửa chạy qua một khoảng trống giữa bức tường và dừng lại tại ga Chính Môn. Ngay phía trước nhà ga, tháp Chính Môn cao tới ba chục thước. Xe ngựa xe kéo nhộn nhịp tranh chỗ. Lưu An, người quản gia của Mạnh Giao, bước lại và báo cho chủ biết xe ngựa đang chờ.

Hôm ấy là một ngày thu huy hoàng. Trong lúc Lưu An lo lấy hành lý, hai chị em ngẩng nhìn cái tháp, cũ kỹ và cao vót nổi lên bầu trời rất xanh. Mẫu Ðơn cảm thấy lạc lõng và sung sướng trong dòng xe cộ lúc nhúc chung quanh. Nàng đề nghị:

– Tại sao chúng ta không đi xe kéo?

– Ðể làm gì?

– Bởi vì chúng ta có thể nhìn rõ hơn là trong chiếc xe ngựa đóng kín.

– Ý kiến hay đấy. Chúng ta thuê một xe ngựa không mui.

– Không, em nói xe kéo.

Nàng biết ước muốn của nàng là điều luật Manh Giao phải tuân theo. Chàng sai Lưu An chở hành lý về nhà trước trong khi ba người đi xe kéo.

Ý kiến đi xe kéo tỏ ra rất đúng. Người ta có thể trông thấy nhiều hơn. Ngay bên ngoài Chính Môn là những đường phố đông đúc bán nón và đèn lồng, rồi tới khu vực chật chội của các tiệm ăn và khách sạn. Qua khỏi Chính Môn, xe đi vào thành phố, rồi rẽ sang phía đông, và khi đi vào khu vực Ngoại giao đoàn, tiếng lọc cọc của bánh xe im hẳn trên đường trải nhựa. Các phái bộ ngoại giao của Anh, Pháp, Nga và Ðức đều tập trung tại đây. Rẽ sang hướng bắc, quang cảnh mở rộng và người ta có thể cảm nhận được cái mênh mông của Bắc Kinh. Ngay sau đó người ta trông thấy những mái vàng của Hoàng Cung ở bên trái, nhấp nhô mái này sau mái kia, chói lọi trong ánh nắng tháng Mười. Ðây là trung tâm của Tử Cấm Thành.

Gần Ðông Ðàn Bạch Lầu, một vài lần rẽ về phía đông nữa là tới nhà Mạnh Giao. Giống như những nhà cửa Trung Hoa khác, nhà của Mạnh Giao có một cái cổng khiêm tốn sơn đen với một vòng tròn sơn đỏ. Lưu An và người đánh xe ngựa đang đứng đó để chào đón, kể cả tên đầu bếp. Một lão già mắt đã mờ có một bộ râu thưa giữ nhiệm vụ canh cửa. Mạnh Giao đã nuôi lão từ nhiều năm rồi, vì chàng không cần phải giữ bề ngoài sang trọng. Còn có một con chó ghẻ lở, cũng ho luôn miệng như lão già gác cổng. Con chó bắt đầu nhảy lên, hít hơi và vẫy đuôi mừng chủ trở về, rồi tìm cách đánh hơi những người khách mới, khiến Hải Ðường rất kinh tởm.

Phòng riêng của Mạnh Giao ở phía hậu viên. Những nhà có hậu viên rất là yên tĩnh, bình dân và ẩn dật. Phòng khách tại giữa nhà treo đầy trướng và đồ đạc bằng gỗ. Ảnh cha mẹ quan Hàn Lâm treo trên tường, bên trên một chiếc bàn gỗ trắc. Phòng ngủ của Mạnh Giao ở phía tây và thư phòng ở phía đông. Nói chung, đây không phải là một tư thất quá tệ cho một quan hàn lâm độc thân, và cũng không khoa trương. Thư phòng là căn phòng dùng nhiều nhất, vì là nơi làm việc của quan Hàn Lâm. Một chiếc bàn lớn phủ đầy sách vở và giấy tờ, kê gần cửa sổ trông ra vườn. Trong phòng là từng hàng kệ sách, ngăn nắp chứa đầy sách. Một cái ghế trường kỷ kê bên dưới một cửa sổ hẹp nhưng cao, và bên cạnh là hai chiếc ghế tựa đứng cạnh một bàn trà nhỏ. Một lò sưởi đã đốt lên để giữ cho phòng ấm áp.

Hai chị em được dẫn vào phòng của họ ở một hoa viên riêng về phía đông của thư phòng. Khi Mạnh Giao sống một mình, chàng không dùng tới khu vực này. Hiển nhiên đây là những phòng riêng của gia đình người chủ trước, có những hoa viên xinh xinh bao quanh bằng những tảng đá xanh đẹp đẽ, và một mảnh vườn nhỏ bây giờ không ai trông coi và cỏ dại tự do mọc. Những nhà cửa tại Bắc Kinh đều một tầng, để không ai có thể ngẩng mặt cao hơn cung điện hoàng gia.

Phòng của hai chị em đã dọn sẵn sàng, mặc dầu cần phải có thêm đồ đạc mới. Lưu An nói muốn chờ hai chị em tới ở, và chọn lựa lấy đồ đạc. Mạnh Giao hỏi:

– Các em thấy thế nào?

Cả hai chị em đều nói họ rất thích hoa viên; Bắc Kinh và những hoa viên này là tất cả những khích động và sung sướng trước sự mới lạ. Ðời sống ở đây dễ dàng thoải mái và cao hơn đời sống của hai chị em ở Hàng Châu, nào là có đầy tớ, đầu bếp, và một chiếc xe ngựa riêng.

*

Trong những ngày kế tiếp có thêm nhiều nhu cầu mới, và Chu má, một người đàn bà bốn mươi tuổi được mướn tới hàng ngày để lo việc lau chùi giặt giũ. Ngoài người nhũ mẫu cũ là Ðinh má, Mạnh Giao không bao giờ quan tâm tới đầy tớ đàn bà; chàng cảm thấy họ thường chỉ nói tào lao, và ngồi lê đôi mách mà không quan tâm tới sự thực.

Vì có hai cô em họ ở chung, cuộc sống của Mạnh Giao có nhiều thay đổi. Ðêm ân ái tại Ðông Lục đem lại cho chàng một cảm giác mới về đời sống, như một hương rượu mùa xuân. Chàng cảm thấy tinh thần chàng đang vượt qua một biên giới mới. Chàng nói chuyện với một sự dễ dàng mới tìm thấy được tại bàn ăn tối, mà trước kia chàng chưa bao giờ có thể làm được, khi Ðinh má còn sống tại đây. Chàng thấy chàng sẵn sàng nói chuyện vì hai chị em cũng đang sẵn sàng nghe, Mẫu Ðơn thường im lặng trong khi Hải Ðường hay chặn lại bằng những câu hỏi nôn nóng. Tại bàn ăn buổi tối, chàng nói lan man, không kiềm chế, và cảm thấy chàng được hiểu, kính trọng và yêu mến. Chàng có cảm tưởng có “gia đình”, hoặc đã tìm thấy ý nghĩa của gia đình. Chàng hay ngưng lại bất ngờ bởi một cảm giác âm mưu tội lỗi. Sự sống chung như thế có thể bất công cho Mẫu Ðơn. Nhưng nàng muốn thế. Dù phải trả giá nào, chàng biết rằng con người chàng đòi hỏi phải có Mẫu Ðơn, tinh thần, giọng nói và sự bầu bạn của nàng. Ðó là một sự cần thiết và nhu cầu của linh hồn chàng. Ðây là Mẫu Ðơn, sẵn sàng coi thường những ước lệ của xã hội để sống với chàng một đời sống bất chính nhưng bằng tình yêu tuyệt vời. Chàng biết chàng không thế tìm chồng cho nàng và không thể sống không có nàng. Ðây là một khuyết điểm trong mối tình đẹp như ngọc. Thực là một bi kịch khi một trở ngại nhỏ đã khiến cho hôn nhân không thể thực hiện được; nếu nàng là một cô em họ mang một họ khác, thì đã có một cuộc hôn nhân của hạnh phúc và sự hoà hợp tinh thần, đẹp đến nằm mơ cũng không thấy được. Nhưng về mặt khác, sự bí mật vụng trộm của mối tình đã tăng thêm gia vị cho sự quấn quýt đam mê lẫn nhau.

Hai người cũng cố giữ bề ngoài trước mặt đầy tớ. Không làm quá đáng một cử chỉ gì. Dù ở trong thư phòng, hoặc trong phòng ăn, một cái bóp tay của nàng, một cái liếc nhìn hiểu biết ngọt ngào và lặng lẽ từ đôi mắt đẹp của nàng, hoặc một sự cố tình đụng chạm thân xác hoặc bàn tay trong lúc cùng xem một cuốn sách hoặc đọc một lá thư, đã làm chàng rung cảm như một ngọn lửa bỗng bùng lên trong gió. Chàng cảm thấy hãnh diện trong sự dan díu, phiêu lưu bí mật và khích động này.

Hải Ðường trông thấy và hiểu rõ tất cả hành động của hai người, nhưng nàng không hề nói gì; nàng nghĩ không chính đáng khi can thiệp vào việc của chị. Nàng đã chứng kiến cái giai đoạn chị nàng dan díu với Tần Châu và ý định tự tử của Mẫu Ðơn khi Tần Châu kết hôn với một người đàn bà khác.

Trong mấy ngày đầu, Mạnh Giao rất bận rộn thăm viếng đồng liêu và nộp các bản báo cáo cho quan Ðại Học Sĩ. Vì công vụ, chàng không thể về nhà ăn trưa hoặc ăn tối. Chàng cũng không bao giờ tìm cách dự tiệc với giới quan trường, một phương tiện tốt nhất để củng cố tình giao hảo và giúp thăng quan tiến chức. Chàng cố tránh việc giao tế ấy. Nhưng sau nửa năm vắng mặt tại kinh đô, chàng không thể tránh né việc xã giao và những bữa tiệc. Chàng cố về nhà khi nào có thể được, thường là khoảng từ 3 đến 5 giờ chiều. Ban đêm chàng phải đi dự tiệc cho mãi tới sau mười giờ đêm mới về nhà. Thỉnh thoảng chàng cũng nán lại với đồng liêu trong khu ca lâu, nhưng người ta thấy chàng thờ ơ và nóng lòng muốn trở về nhà.

Về đến nhà chàng thường thấy Mẫu Ðơn chờ đợi chàng trong thư phòng, cuộn người trong chiếc ghế trường kỷ và đọc sách. Chàng ít khi thấy nàng ngồi một cách ngay ngắn.

Nàng không ngồi dậy, chỉ gọi chàng, “Lại đây!” rồi kéo chàng vào lòng và cọ môi vào môi chàng, không nói một lời, nhưng mắt vẫn đăm đăm nhìn chàng, yêu thích chàng, những ngón tay ấm áp của nàng vuốt ve tóc chàng, và cù vào gáy chàng như đùa một chú mèo con. Chàng sẽ kể cho nàng nghe hôm ấy chàng thấy gì, làm gì, và nàng sẽ yên lặng lắng nghe; chàng không biết nàng thực tình có nghe chàng nói không. Chỉ có đôi mắt nâu của nàng mở to, nghĩ ngợi và nhìn chàng thật tình tứ. Mạnh Giao thường phải viết hoặc đọc giấy tờ đến khuya, bằng lòng với sự hiện diện của nàng trong phòng. Ðầy tớ đặt một bình trà trong cái giỏ tre cũ kỹ. Vào những tối lạnh lẽo, tấm màn cửa dầy được kéo lại che kín cửa sổ, để khí lạnh không thấm vào phòng. Rồi Mạnh Giao nói chàng phải thức để làm một vài công việc và đèn được thắp lên. Nếu đã khuya, nàng sẽ trở về phòng riêng, lách qua một chiếc cửa nhỏ bên cạnh một tủ sách.

Một tối nàng bảo chàng, “Em có cái này cho anh xem.” Nàng trao cho chàng một phong bì dầy tới ba chục phân bằng loại giấy rất dầy, thường dùng làm bao đựng công văn. Bên ngoài có dấu của Sở Thuế Muối Cao Vũ.

– Em muốn cho anh biết cái mà chồng em làm. Anh sẽ hiểu khi anh trông thấy tên những người đàn bà và số tiền mà chồng em tiêu dùng cho họ.

Nàng giải thích nàng thấy phong bì này ở nhà sau chuyến đi chơi Ðông Lục về; phong bì được một lái thuyền giao cho nàng từ Cao Xương. Bên ngoài có một mẩu giấy ghi hàng chữ: “Của Bà Phí Ðình Diêm: Riêng tư” với hai vòng tròn quanh chữ “Riêng tư”. Gia đình họ Phí ở Cao Xương gửi cho nàng, tưởng rằng đó là những giấy tờ riêng của nàng. Nhưng bên trong chỉ có những lá thư của chồng nàng và một cuốn nhật ký dầy cùng với một cuốn sổ kế toán. Sở Thuế Muối tại Cao Vũ đã gửi một số đồ đạc, cùng với cái phong bì đặc biệt này cho người goá phụ. Họ không biết nàng đã rời bỏ nhà họ Phí.

– Ðối với em thì không có gì mới lạ. Nhưng anh không trách em phải không, khi anh trông thấy những tài liệu này? Chính Ngọc Lê, Ngân Ðào và Tiểu Thúy được chồng em thương nhất.

Mạnh Giao dửng dưng cúi xem tập hồ sơ. Ðây là những khoản chi tiêu cho những bữa ăn tối và giải trí, khoảng từ tám mươi đến chín mươi quan. Ðó là việc thường tình của một viên chức. Tuy nhiên có những khoản lợi tức làm chàng phải chú ý, với đầy đủ tên người, ngày tháng, và số tiền, thường là trên một ngàn quan. Ðình Diêm viết những con số này rất nắn nót đẹp đẽ. Dĩ nhiên anh ta đã sống quá phương tiện của mình.

Cuốn nhật ký thì viết rõ ràng hơn. Trong một số trang, Ðình Diêm dán những lá thư tình của người yêu. Có một số trang ghi chép rất lộn xộn, chẳng hạn như “gặp gỡ thất bại”, “người đàn bà đó thực là ngu không thể tưởng, sau những đề nghị của tôi.” Những lời viết về bạn đồng sở cũng chẳng tốt đẹp gì. Và cuối cùng hắn ghi chú những trường hợp buôn lậu và hối lộ, những cuộc thương lượng và hăm dọa như sau: “Tôi biết họ Dương sẽ phải trả tiền. Hắn không thể bỏ đi với số tiền dưới mười lăm ngàn quan, chưa kể hai ngàn năm trăm quan của riêng tôi. Ngày mai sẽ nói chuyện với Thuyết.”

Thực là khó hiểu tại sao Xếp Thuyết lại để tài liệu này vào tay người khác. Có lẽ ông ta không biết, hoặc không chịu mở ra xem bên trong có gì. Một người thư ký đã tìm thấy tập hồ sơ này trong ngăn bàn giấy có khóa của Phí trong sở; họ phải cậy ngăn kéo ra.

Mạnh Giao nghiêm trọng hỏi, “Em có biết nghĩa là gì không? Ở trong tay một công tố viên thì đây là một vụ phạm luật nghiêm trọng liên hệ tới cả sở Thuế Muối.”

– Vậy thì tại sao anh không tố cáo đI?

– Em thù ghét chồng em, phải không? Nhưng bây giờ chồng em đã chết rồi.

– Em không hiểu anh, một viên chức triều đình. Nếu đây là sự vi phạm luật pháp của triều đình, anh không nghĩ là cần phải quét sạch ư? Còn hắn ta thì có nghĩa gì với em chứ?

Chàng cảm thấy dường như sâu bên trong nàng có cái gì vẫn còn cháy. Hôn nhân vô phúc đó đã một thời phá hủy mọi mơ uớc và đam mê trong lòng nàng. Nàng vẫn nhớ những tiếng cười trống rỗng của chồng, sự phô bày trần truồng tâm hồn và trái tim của một người đàn ông vô lương tâm và liều lĩnh quyết thành công, và cái thời gian mà từng tiếng động nhỏ cũng làm nàng giật mình, và nàng sợ cả ánh sáng. Tất cả tro tàn của lòng phẫn nộ và thù hận của một người vợ trẻ bất mãn, tuy đã sung sướng chôn vùi và quên đi trong một nửa năm vừa qua, nhưng vẫn còn cháy âm ỉ day dứt trong nàng, mà chỉ người nào đã trải qua mới có thể hiểu được.

Mạnh Giao đốt điếu thuốc, rít vài hơi rồi nhả khói trong thư phòng yên tĩnh. Cuối cùng chàng nói, “Em chắc không muốn xuất hiện trước toà án. Và anh cũng không muốn em dính dáng vào vụ này. Chắc chắn là khi xử, người ta sẽ đòi em ra làm nhân chứng, bởi vì bằng chứng trực tiếp có liên hệ đến chồng em. Nhưng Nghi thân vương có thể che chở cho em được, tùy theo sự việc sẽ diễn tiến như thế nào. Nếu anh nộp những chứng cớ này cho công tố viện, công tố viện sẽ nhảy lên vồ lấy ngay, có thể là cơ hội cho họ thăng chức hoặc là cho họ một dịp bóp thêm tiền của những thương gia muối giầu có của Dương Châu. Cuốn nhật ký này đủ để đưa tới một cuộc điều tra sâu rộng, vì có đủ tên tuổi, ngày tháng và số tiền hối lộ. Ðây sẽ là một vụ tai tiếng xấu xa, trừ phi các thương gia muối phải kịp thời tìm cách làm êm…”

Câu trả lời của nàng đặc biệt đàn bà với một cái chép miệng khẽ, “Vụ này sẽ làm trái tim của mẹ chồng em tan vỡ. Bà ta vốn rất lo lắng giữ gìn thể diện… Em không quan tâm miễn là tên em không dính vào vụ này.”

– Dĩ nhiên sự điều tra của nhân viên Ðại Lý Viện sẽ được giữ bí mật. Anh sẽ bảo họ chừa em ra. Em không biết gì về vụ này, đúng không?

– Em không biết gì ngoại trừ việc mèo chuột của chồng em. Em không biết tên một cô gái nào. Dĩ nhiên hắn không bao giờ cho em biết. Nhưng làm thế nào họ có thể điều tra được bằng cớ nếu không có cuốn nhật ký này?

– Mặc họ. Họ có cách riêng. Nhân viên điều tra sẽ tới đó, làm quen với bồi khách sạn, tìm tòi tên tuổi, hoặc có thể nhập bọn với nhân viên Sở Thuế Muối. Phải mất hàng tháng. Những câu chuyện ngồi lê đôi mách, tại các tiệm hớt tóc. Khi có một vụ như trong nhật ký thì mọi người đều biết cả, trừ những viên chức cao cấp. Ngọc Lê, Ngân Ðào, Tiểu Thúy. Mấy cô gái này biết nhiều lắm. Việc này quá dễ.

– Anh nói mấy cô gái này sẽ khai ra?

– Họ có thể bị bắt buộc phải khai. Ðừng sợ. Những tài liệu này sẽ trả lại cho em. Người ta sẽ làm một bản sao.

Một lúc sau chàng nói tiếp, “Anh sẽ giữ hồ sơ này và suy nghĩ thêm. Không gấp gáp gì.”

*

Phải mất một thời gian hai chị em mới quen với đời sống tại Bắc Kinh, cùng với những âm thanh và màu sắc mới mẻ lạ lùng. Bắc Kinh có nghĩa là một bầu trời xanh biếc, những ngày đầu thu khô lạnh, những lâu đài tráng lệ, sự lặng lẽ trong sáng của những căn nhà trong ngõ, và tiếng kêu ríu rít của chim chóc. Ðến từ miền nam, hai chị em nghĩ thành phố tiêu biểu cho miền bắc, với sự cởi mở, những màu sắc tươi tràn ánh nắng mặt trời, và tinh thần hài hước và vui tươi của người dân Bắc Kinh.

Hai chị em thường ngồi xe ngựa tới chợ Ðông An, chỉ cách nhà một quãng. Họ xuống xe, đi qua phố xá chằng chịt, tại đó người ta có thể mua bất cứ cái gì, từ trái cây và thịt ngọt Thượng Hải tới tơ sợi và vải lụa, hoặc ngồi ăn tại những quán ăn nhỏ, hoặc xem những tuồng kịch nghệ Bắc Kinh. Ðó là một rạp hát ngoài trời, tồi tàn và đông người – nhưng những giọng hát thật là quyến rũ hấp dẫn. Hoặc họ có thể tới chợ phiên tại đền Long Phật, ở đây người ta có thể mua tranh, bút thiếp, đủ loại nghệ phẩm, và những giầy da mới tinh. Hoặc khi Mạnh Giao đi cùng, họ thường tới Thiên An Môn, trước Cấm Thành.

Bắc Kinh quả thực là nơi rất đúng chỗ cho Ngai Vàng của Thiên Tử. Thiên nhiên, trí tưởng tượng, sự nồng nhiệt thành tâm, đời sống của con người cả giầu lẫn nghèo, sự ồn ào, dân chúng vui cười đã làm cho thành phố trở thành như vậy. Hào phóng là chữ đúng nhất để mô tả thành phố – hào phóng về thời gian và không gian, và tinh thần con người. Nét đặc biệt này có thể tìm thấy ở bất cứ đâu khi người ta đứng trên đại lộ Trường An, dài hai ba dặm, rộng và thẳng như một mũi tên, hai đầu bắc và nam có cổng tháp vươn lên tới mây trời như trong một bức họa. Thiên An Môn đủ chỗ cho cả trăm ngàn người tụ họp. Cái ấn tượng này tạo ra được là nhờ những kích thước mênh mông và những con đường thấp, rộng và vươn tới thật xa, sản phẩm của tâm trí những người quen với những khoảng trống bên ngoài sa mạc. Bắc Kinh trải rộng và hỗn độn hơn là bị vây kín hoặc vươn lên không gian. Thành Cát Tư Hãn đã xây dựng Bắc Kinh, một hoàng dế nhà Minh tái thiết, hoàn tất và mở rộng thành phố vào thế kỷ 15, theo cái mô hình hiện tại mà người ta thấy, và các hoàng đế vĩ đại Khang Hy và Càn Long đã làm đẹp thêm. Sức mạnh của lịch sử hỗ trợ thành phố, luôn luôn mênh mông, đại lượng và linh hoạt.

Chị em nhà họ Lương choáng ngợp vì cái thành phố mới lạ và trắng lấp lánh. Sức mạnh của miền bắc, cởi mở, trong sáng, tự nhiên, trong sạch, sáng chói giống như mặt trời màu trắng và bầu trời xanh, khác hẳn cái vẻ lờ mờ sương mù nhẹ nhàng của miền nam, đã gây ấn tượng tốt đẹp cho hai chị em. Ðây là sự kết hợp của sức quyến rũ và sự giản dị, sự quyến rũ huy hoàng của hoàng gia và triều đình đi đôi với sự lặng lẽ dịu dàng và hoàn toàn mộc mạc của những tư thất. Cách Ðông Ðàn Bạch Lầu một quãng, người ta có thể trông thấy những mái nhà màu xanh, màu lam ngọc và màu xanh tía đậm nằm giữa màu vàng chói lọi, và bên dưới là những bức tường dài có lỗ châu mai của Tử Cấm Thành ở phía sau những cung điện, vươn lên bên trên cái hào rộng gần mười thước, chấm dứt ở phía đông bắc bằng một cái tháp có nhiều đầu hồi, chồng chất lên nhau trong màu vàng và ngọc bích.

Thiên nhiên rất hào phóng với bầu trời xanh biếc, mùa đông nắng ráo và khu vực ngoại ô Tây Sơn lộng lẫy, thấp thoáng những đền chùa đẹp đẽ. Nghệ thuật của con người đã tạo ra một cảm giác vĩ đại, trong sáng và yên bình. Chính cái đời sống của con người đã làm người ta yêu mến thành phố. Ðối với người dân, Bắc Kinh giống như một người mẹ rất hiểu biết và rộng lượng, hoặc là như một cây đa khổng lồ cung ứng nơi trú ngụ cho đủ loại côn trùng. Ðó là hàng triệu những phu kéo xe vui vẻ trong nghèo túng, và những người hầu bàn lễ phép trong các tửu quán, và những đám đông đi loanh quanh các khu buôn bán cạnh đền chùa, và những thương gia và vợ con của họ mang dấu hiệu của thành phố bằng sự kiên nhẫn, lòng vui vẻ và tư cách lịch sự vốn có của họ.

Ðôi khi ba người có những bữa ăn tối thích thú với món thịt trừu nướng theo kiểu Mông cổ tại Thành Dương Lầu. Món thịt nướng được làm ngay bên ngoài hoa viên trong khi khách đứng quanh lò than, dùng đũa lật qua lật lại những miếng thịt trừu trên ngọn lửa và ăn ngay tại chỗ để không mất đi mùi vị của thịt. Sau bữa ăn, họ về nhà, ngồi trong thư phòng và nói chuyện vặt, hoặc bàn luận về sách vở hoặc họa phẩm, với vô tận những giai thoại về sự lập dị của những học giả danh tiếng. Hoặc Mạnh Giao và Mẫu Ðơn chơi cờ tướng trong khi Hải Ðường viết thư thăm gia đình.

Buổi tối thường lặng lẽ. Những ngõ hẻm của Bắc Kinh có một nhạc điệu riêng về ban đêm. Ngược lại sự tĩnh lặng trong bóng tối bên ngoài đại lộ, những tiếng rao hàng kéo dài của những người bán hàng rong, bán mì hoặc bánh bao và trái hồng ướp nước đá ngon tuyệt của mùa đông, vang lên trong đêm dài, nghe rất ngọt ngào. Một tô mì hoặc bánh bao nóng hổi là một bữa ăn khuya thú vị.

Có khi, ba người giải trí bằng cách làm thơ. Và cứ thế, giữa sự vui đùa và tiếng cười, hai chị em học hỏi được rất nhiều về bí quyết của thơ văn, và dần dần quen thuộc với những hình thức phức tạp của thơ trữ tình đời Tống.

Mạnh Giao nhận thấy chàng không bao giờ làm cho Mẫu Ðơn đọc hết được một cuốn sách. Nàng có tài và viết dễ dàng và rất đẹp, nhưng nàng không đủ kiên nhẫn cho chi tiết. Tư tưởng là của riêng nàng và chàng sung sướng nhận thấy thế; chàng tin rằng khi nàng thu thập đủ tư tưởng và kinh nghiệm, nàng sẽ vượt qua được bước đầu để trở thành một nhà văn hay.

Một hôm nàng nói với chàng, “Em sẽ không bao giờ đọc hết được một cuốn sách khi em có thể đọc được nửa cuốn, không bao giờ đọc được nửa cuốn khi em thích thú một trang hoặc một đoạn, không bao giờ đọc cả một đoạn khi em thích thú một dòng hoặc một câu. Như thế đủ rồi.”

– Như em không bao giờ bước đi khi em có thể đứng, không bao giờ đứng khi em có thể ngồi, không bao giờ ngồi khi em có thể nằm dài trên ghế trường kỷ.

– Em biết em lười biếng, và sung sướng với sự cô đơn của em.

– Nhưng đó là đặc tính của em. Anh không bao giờ muốn em khác với con người thực của em. Kể từ

khi anh gặp em lần đầu, tất cả những đàn bà khác anh gặp ngoài đường phố dường như rất tẻ nhạt. Chỉ vì họ không phải là em. Chỉ có một Mẫu Ðơn thôi; không thể có hai. Có người trông giống em, nhưng không có cái giọng nói của em, và nếu họ có giọng của em thì họ lại không có tinh thần và lối sống của em.

Nàng hỏi một cách hài lòng, “Lối sống của em thế nào?”

– Toàn thể con người của em. Cách em ngồi, cách em đứng, như Ðinh má nói – cách em cử động, buông thõng tay và hất đầu lên khi em bước đi – cách em nhìn đời, vẻ ao ước và ý muốn tìm kiếm một cuộc đời đẹp đẽ… Và em nồng nhiệt, không gò bó, trưởng thành… Anh không biết diễn tả thế nào…

Mẫu Ðơn rạng rỡ nhìn chàng. “Em không biết cái gì đã đến với em. Kể từ khi gặp anh, em không viết được nữa. Em nhớ là đã chờ đợi thư của anh. Ðó là lúc em ở nhà mẹ em trước khi anh tới. Em thường cầm một cây bút để viết, rồi em lại bỏ xuống; khi nói chuyện, em trở nên im lặng; khi im lặng, em suy nghĩ; khi suy nghĩ, ý tưởng của em bay đi rất xa, tự hỏi lúc đó anh đang làm gì.”

– Hãy viết đúng như em đang nói bây giờ. Một ngày nào đó em sẽ trở thành một nhà văn hay, anh tin chắc thế.

– Em cũng muốn viết lắm.

Mẫu Ðơn rạng rỡ nhìn chàng. “Em không biết cái gì đã đến với em. Kể từ khi gặp anh, em không viết được nữa. Em nhớ là đã chờ đợi thư của anh. Ðó là lúc em ở nhà mẹ em trước khi anh tới. Em thường cầm một cây bút để viết, rồi em lại bỏ xuống; khi nói chuyện, em trở nên im lặng; khi im lặng, em suy nghĩ; khi suy nghĩ, ý tưởng của em bay đi rất xa, tự hỏi lúc đó anh đang làm gì.”

– Hãy viết đúng như em đang nói bây giờ. Một ngày nào đó em sẽ trở thành một nhà văn hay, anh tin chắc thế.

– Em cũng muốn viết lắm.

Khi mùa xuân đến, Mẫu Ðơn trở nên rất bồn chồn. Ðó là một căn bệnh mà chính nàng cũng không hiểu được.

Nàng càng ngày càng muốn ở một mình, và thường lui vào phòng riêng. Ngọn giây leo của lòng mơ ước trong nàng đã vươn tới một cái gì không biết – nàng không biết cái đó là gì. Nàng vẫn rất yêu thích Mạnh Giao, nhưng tình yêu của nàng không còn bồng bột, tự nhiên và tròn đầy như lúc ở Ðông Lục, hay là lúc gặp gỡ trên thuyền tại Ñch Xương. Càng ngày nàng càng đi chơi một mình và hoà nhập với bọn người tại quán rượu, quán trà, hoặc nhưng nơi giải trí công cộng. Một sự giục giã bên trong cứ thúc đẩy nàng, như thể nàng đang tìm kiếm một cái gì đã mất, hoặc bị bỏ quên trên đời này.

Hải Ðường hỏi tại sao nàng chỉ đi chơi một mình và không đi cùng Mạnh Giao, thì nàng trả lời, “Chị không biết. Ðôi khi chị chỉ muốn ở một mình, hoàn toàn một mình.” Nàng đã ước muốn sống với Mạnh Giao và bây giờ nàng toại nguyện. Nàng không đau khổ, nhưng không hoàn toàn hạnh phúc. Mạnh Giao cảm thấy thế, và mơ hồ biết rằng chính chàng là sự vướng bận cho nàng. Hoặc có thể là sự chán nhau. Cái thế giới của ánh trăng mơ mộng phải nhường chỗ cho ánh nắng mặt trời thực tế. Nhưng cũng không hẳn thế; nàng dường như bị ám ảnh bởi một hình bóng nào đó, một cảm giác bồn chồn mơ hồ mà nàng không tự mô tả được. Mẫu Ðơn biết nàng yêu kính Mạnh Giao như nàng chưa bao giờ yêu kính một người đàn ông nào như thế, nhưng có một cái gì thiếu ở chàng – có lẽ đó là cái hình ảnh trẻ trung và bốc lửa của Tần Châu.

Hoặc có lẽ đó chỉ là cái bản năng đầu tiên của người đàn bà đi tìm định mệnh trong hôn nhân và gia đình. Trong một mối quan hệ bất chính bao giờ cũng có một cái gì không thoả mãn. Hoặc có thể là chính con người Mẫu Ðơn, mơ mộng, đa cảm, và mãi mãi ao ước những cái gì không biết.

Vì thế nàng theo đuổi một thói quen cũ và một sự thúc đẩy mới, cao ngạo không cưỡng lại được. Nàng tìm thấy sự giải thoát bằng cách đi lang thang trong thành phố và tìm những chốn vui chơi đông người nhất. Dẫu sao, đó cũng là vì tuổi trẻ của nàng nữa.

Trong những ngày đi chơi lang thang, nàng chọn mặc chiếc áo chẽn bằng vải xanh thông thường và một chiếc quần xanh đậm đơn sơ. Người ta khó nhận ra nàng trong cái con người mặc y phục xanh ấy. Nó giúp nàng cảm thấy thoải mái và an toàn. Ðầy tớ rất đỗi ngạc nhiên thấy nàng đi ra ngoài trong y phục ấy. Nhưng chắc chắn Hải Ðường không lạ gì cái cá tính của Mẫu Ðơn.

Nàng gọi xe kéo tới Thiên Kiều, một khu vực có những trò chơi ưa thích bên ngoài Chính Môn, trong khu vực ngoại thành. Nàng có một thiên tài đáng ngạc nhiên là hòa nhập rất mau lẹ trong đám đông, tại đó nàng có thể tìm thấy sự thân thiện hiếu khách cởi mở, không có những ước lệ cản trở sự hoà hợp xã hội của giai cấp trưởng giả; tại đó người lạ có thể gặp nhau và trò chuyện mà không cần phải giới thiệu, và thân mật gọi nhau bằng tên riêng chỉ sau dăm phút.

Tại Thiên Kiều nàng tìm được cái nàng muốn; nàng sung sướng quên mình trong cái đám đông đi tìm thú vui. Những cặp trẻ tuổi chen lấn nhau, những ông già lưng còng râu bạc nhấm nháp bánh vừng và tay dắt các cháu, những trẻ con khác đi tiểu ngay nơi công cộng, quần của chúng khoét thủng đáy cho tiện, những cô gái tay cầm thúng đuổi nhau giữa những tiếng cười ròn rã. Và trên tất cả là tiếng kẻng ầm ĩ, tiếng trống cơm lách cách. Gần ngay đó các võ sĩ phô bày thân thể và bắp thịt giữa những tiếng reo hò thán phục.

Rồi hai võ sĩ mình trần chắp hai tay lại, giơ lên vái đám đông chung quanh, và lễ phép nói, “Xin lỗi quý vị thúc thúc và đại huynh. Chúng tôi là khách sông hồ chuyên bán thuốc. Chúng tôi không dám khoe khoang nghề mọn. Quý thúc thúc và đại huynh nào tài giỏi hơn, xin tha lỗi cho sự trình diễn kém cỏi của chúng tôi. Chúng tôi cầu khẩn lòng rộng lượng của quý vị.” Ðây là lời nói của các võ sĩ để mở đầu và chấm dứt một buổi biểu diễn. Lời nói khiêm tốn này giúp họ tránh rắc rối tại một thành phố xa lạ.

Mẫu Ðơn thích một trong hai võ sĩ. Người ấy có một mái tóc đẹp bồng bềnh và một nụ cười trong sạch, phô ra một hàng răng trắng. Dùng chiếc chiêng lật ngược làm một chiếc khay, anh ta đi quanh đám đông để thu tiền. Anh ta la to và có vẻ khoái chí, “Cao trị đau nhức! Mười xu một gói!” Khi trông thấy không có nhiều tiền liệng vào và quá ít người mua thuốc cao, anh ta nhìn chiếc khay, lắc đầu và nói đùa để gợi lòng tội nghiệp. Cong tay lại để bắp thịt cuộn nổi lên, anh ta nói, “Xin coi đây! Ðừng bỏ đi!” Chỉ vào cái miệng mở rộng và vỗ mạnh vào bụng, anh ta ngẩng đầu la lên, như kêu gọi Trời, “Trời hỡi! tại hạ bán sức mạnh của Trời để kiếm một chén cơm.” Rồi cúi đầu nói với người, “Tại hạ có thể nhịn ăn được không? Tại hạ bán hơi thở, mồ hôi cho một chén cơm. Xin ủng hộ!” Những người đứng quanh có vẻ động lòng và vài người liệng tiền vào.

Mẫu Ðơn liệng vào mười đồng xu, mắt nàng chăm chú nhìn cái ngực đầy bắp thịt gồng lên của người võ sĩ, mồ hôi chảy dòng dòng. Anh ta ngước lên nhìn, ngạc nhiên trước sự hào phóng của nàng, rồi nhìn lại một lần nữa cái hình ảnh đẹp đẽ của nàng. Nàng bắt đầu lùi ra. Nhưng anh ta nhìn theo nàng. Với cái tự do của một người vô học, anh ta la to theo nàng, “Này, cô nương, đừng bỏ đi! Này cô nương!”

Nàng rất thích tiếng gọi của người võ sĩ, và quay lại nhìn. Anh ta hát một bài dân ca làm vui đám đông.

Cô Nương, đừng bỏ đi

Cô chiếm tim tôi rồi

Tình tính tang

Cô Nương đi đâu thế?

Nếu Cô Nương trở lại

Xin trả lại tim tôi

Tình tính tang

Cô ở đâu?

Sau rặng liễu

Trên lầu cao

Ôi Cô Nương!

Tình tính tang

Mẫu Ðơn nhìn người võ sĩ chăm chú; anh ta trông rất gợi ham muốn, nhưng không còn hát cho riêng nàng nữa. Nàng mỉm cười bước đi. Gần đó vang lên âm thanh của một cây thương kêu vù vù. Một võ sĩ khác đang múa và khách bắt đầu tụ một vòng quanh anh ta. Từ đằng xa đưa tới âm thanh của tiếng trống và tiếng kèn Thổ nhĩ kỳ chói tai. Nàng chạy lại. Một người đàn bà đang nằm ngửa trên một cái bàn, hai chân đỡ một chiếc thang dài hơn ba thước. Một đứa con gái mười tuổi đang luồn lên luồn xuống qua những nấc thang. Một người đàn ông vỗ trống và kêu gọi xin tiền. Nhiều người ném tiền xuống đất, rồi đứa con gái bước xuống và người mẹ ngồi dậy. Tiếng trống bỗng dồn dập. Ðứa con gái cầm một cây sáo và thổi một khúc nhạc du dương réo rắt. Người mẹ bắt đầu hát và nhảy múa. Mẫu Ðơn cùng mọi người tay vỗ, chân đập nhịp và hát theo.

Mẫu Ðơn thích những buổi đi chơi như thế này. Giữa cái đám đông chen chúc, nàng tìm thấy bản chất tự nhiên của nàng, hoà nhập với đám đông chất phác. Trông thấy một quán trà lộ thiên, nàng bước lại, ngồi xuống nghỉ, tư lự và ứa nước mắt. Ðây có phải là cái nàng tìm kiếm không? Nàng không biết. Nàng chỉ cảm thấy một nỗi đau không tên trong tim và rất thiếu thốn một cái gì, và muốn một cái gì. Nàng còn trẻ và rất đẹp trong chiếc áo chẽn ngắn tay và chiếc quần bó. Ðủ loại đàn ông đi qua trước mặt nàng. Nàng thấy bất cứ khi nào nàng ra ngoài một mình và ngồi trong một tiệm trà, tư lự nhưng không nghĩ ngợi gì, thì sẽ có người đến gợi chuyện với nàng. Hầu bàn, già hay trẻ, cũng muốn nói chuyện với người con gái đẹp có nụ cười ấm áp ấy. Nàng rất thành thực và dễ dàng với tất cả – không cần biết người đối diện là ai. Ôi, nàng hiểu biết đàn ông! Nàng không cần tình dục ở họ, nhưng nàng thích cái bầu không khí tự do, dễ dàng và khích động quanh họ. Phải chăng nàng đang đi tìm một tình yêu đã mất, hay là một lý tưởng mà nàng không thể tìm được?

*

Mùa xuân ấy, Mạnh Giao nghe tin của bạn bè trong Ðại Lý Viện cho biết đã khám phá một vụ buôn lậu muối lớn, liên can tới một thương gia muối nổi tiếng tại Dương Châu. Người này đã âm mưu với Sở Thuế Muối Cao Vũ, dùng thuyền của nhà nước chở muối lậu, và do đó đã trốn được món thuế muối nặng. Xếp Thuyết và một số nhân viên quan thuế bị dính vào vụ này. Nếu công tố thành công thì người thương gia muối sẽ bị phạt nặng và bị tù đầy, và Xếp Thuyết sẽ bị cách chức, bị án tù nặng, và có thể là tử hình. Rất nhiều dữ kiện đã thâu thập được tại chỗ. Xếp Thuyết và người thương gia muối bị buộc tội đã biết rõ mà vẫn làm thất thoát tài nguyên của triều đình. Tùy theo nội vụ sẽ diễn tiến thế nào, và nếu bị chứng minh vi phạm nhiều lần, thì Xếp Thuyết sẽ bị xử tử vào mùa thu tại Bắc Kinh.

Dĩ nhiên vụ này có nhiều chi tiết phức tạp. Dương Thuận Lý, người thương gia muối, quá tuyệt vọng, hốt hoảng như kiến bò chảo nóng. Hắn có nhiều ảnh hưởng và hy vọng tiền bạc sẽ nói cho hắn. Hắn gửi một đại diện lên Bắc Kinh để nghiên cứu cửa nào có thể chạy chọt được. Nhưng Lưu Ðằng, viên ngự sử phụ trách vụ án là người rất chính trực. Thất bại không tìm được chỗ lo lót, đại diện của Dương Thuận Lý đành quay về Dương Châu.

Vào giữa tháng hai, Xếp Thuyết và Dương Thuận Lý bị bắt, và một số người được triệu tới làm nhân chứng. Những người hợp tác với triều đình, như ba cô gái thanh lâu, Ngọc Lê, Ngân Ðào và Tiểu Thúy, được thả ra, nhưng vẫn bị canh chừng.

Vụ án liên hệ gần tới Mẫu Ðơn. Bằng chứng quan trọng nhất là cuốn nhật ký và cuốn sổ kế toán bằng chữ viết tay của chồng nàng. Dù bằng chứng hiển nhiên, nhưng Xếp Thuyết và những người khác vẫn tiếp tục chối tội, và đổ trách nhiệm lên những nhân viên cấp dưới; gia đình những người này được thương gia muối hứa hẹn sẽ được chu cấp nuôi dưỡng.

Cái bằng chứng sinh tử bây giờ ở trong tay Mạnh Giao. Bản sao đã được chuyển tới Ðại Lý Viện. Vụ án sẽ xử tại toà án địa phương thuộc Giang Tô, và cuối cùng sẽ qua tay Tổng đốc Nam Kinh, và phải được Ðại Lý Viện phê chuẩn. Mạnh Giao nhiều lần yêu cầu viên ngự sử xử theo lời thú tội, và bỏ qua cuốn nhật ký để giúp cô em họ. Viên ngự sử nộp bằng chứng liên hệ tới người chồng đã chết của nàng. Tuy cái tên họ Phí bị liên lụy rõ ràng, nhưng xử tội một người đã chết chẳng lợi lộc gì, và vì bà Phí không biết gì về vụ buôn lậu, nên viên ngự sử hứa bỏ tên nàng ra ngoài.

Vào dịp này, Mẫu Ðơn ngỏ ý muốn về thăm cha mẹ tại Hàng Châu. Mạnh Giao không hiểu tại sao. Nếu nàng vẫn còn lo lắng bị dính dấp vào vụ kiện, chàng có thể viết thư cho Nghi thân vương, yêu cầu ông ta nói một lời với Tổng đốc Nam Kinh. Về lý thuyết thì Tuần Vũ và Tổng Ðốc ngang nhau, và mặc dầu hai người có khu vực quyền hạn tách biệt nhau, nhưng một lời nói của Tuần Vũ người Mãn Châu thường có sức mạnh đối với một Tổng Ðốc người Hán. Cách dễ dàng nhất là nói riêng: một lời nói bên bàn tiệc cũng đủ. Do đó Mạnh Giao viết một lá thư riêng cho Nghi thân vương. Như vậy vấn đề đã được giải quyết, và Mạnh Giao không bận tâm về vụ buôn lậu nữa.

*

Vào đầu tháng Tư, ngay sau lễ Thanh Minh, Mẫu Ðơn nhận được một lá thư của Bạch Huệ. Thư của hai người viết cho nhau thân mật và thành thực như cách nói chuyện của họ. Bạch Huệ có thể nói bất cứ gì cũng không làm Mẫu Ðơn phật ý. Trong lá thư mới, Bạch Huệ viết:

“Mẫu Ðơn,

Tôi lúc nào cũng thán phục tinh thần độc lập và liều lĩnh của chị. Và tôi chắc chị đang xem nhiều thứ tại Bắc Kinh mà tôi hy vọng sẽ đến thăm một ngày nào đó cùng Như Thủy. Chị đang sống trong giấc mơ của chị. Mẫu Ðơn, chị là một con quỷ may mắn! Người ta bảo tôi về việc thăm Thiên Ðàn trong một đêm trăng và tôi để dành cái lạc thú đó để ngắm cùng với chị – có lẽ sau này khi chị đã ổn định hẳn rồi. Tôi sẽ có lý do tốt để đi thăm chị…

Chị không biết chị đã làm gì cho Tần Châu đâu. Tôi nói cho chị biết tim tôi muốn tan vỡ. Tôi kinh hoàng trông thấy anh ta trong dịp lễ mùa xuân khi anh ta xuống đây viếng mộ tổ tiên. Tóc anh ta rối bù, mặt hốc hác và có một cái nhìn khốn khÜ. Người ta có thể nói anh ta đã thay đổi nhiều. Ðó là một khuôn mặt cứng cỏi, nhưng bên trong, anh ta đã tan nát rồi. Anh ta cho biết đang sống với một gái điếm tại Thượng Hải. Từ Tô Châu tới Thượng Hải chỉ mất một giờ xe lửa. Tôi phải kể cho chị một điều mà trước đây tôi chưa kể. Anh ta đến đây vào tháng Mười Một sau khi chị đã đi rồi, và ra cái chỗ bên dưới con suối và ngủ đêm tại đó. Buổi sáng khi anh ta trở lên, mắt anh ta đỏ ngàu và mặt hốc hác. Nhưng anh ta cố giữ một bề ngoài can đảm. Bây giờ anh ta khác xưa nhiều lắm. Tôi e sợ rằng chị không thể làm gì để giúp anh ta trở lại như xưa. Anh ta không hề nhắc đến tên chị lấy một lần khi nói chuyện với tôi. Nếu anh ta căm hận thì chị không thể trách anh ta được. Vì tôi biết anh ta một thời gian rồi nên tôi đau lòng thấy anh ta như thế… Tôi tin chắc phải mất nhiều thời gian anh ta mới có thể hồi phục lại được, như chị cũng đã biết cá tính anh ta rất mạnh mẽ…”

Mẫu Ðơn không thể đọc hết. Nàng cảm thấy lúc nóng lúc lạnh, và có một cảm giác nghẹt thở kinh khủng. Lá thư không nói chàng đã bỏ vợ; hiển nhiên là chàng chưa làm thế. Một gái điếm có thể làm nhiều thứ công khai mà một người con gái nhà lành không thể làm được! Nàng tin chắc rằng người gái điếm không xứng đáng với chàng hoặc chàng không thực tình cần người gái điếm ấy. Nàng cảm thấy một cơn đau nhói mơ hồ và bệnh hoạn trong nội tạng, và mặt nàng bừng đỏ như đau đớn.

Tin này làm nàng rất hối tiếc. Vì chàng không thể ly dị vợ, nên không phải lỗi của nàng nếu nàng không chịu làm tình nhân của chàng, như người gái điếm đã làm. Và không có lý do gì để viết thư cho chàng; chỉ gây thêm những vướng mắc tình cảm và làm chàng khó quên nàng. Ðành chịu thế vậy. Hãy để người gái điếm rẻ tiền giúp chàng hồi phục lại bản thân.

Ðêm ấy nàng thức giấc lúc nửa đêm và không thể ngủ trở lại. Nàng ngồi dậy, bước ra bàn giấy, thắp đèn, và ngồi suy nghĩ. Ánh sáng dịu của ngọn đèn và sự yên lặng của những ngôi sao giống như lúc nửa đêm nàng sống với Tần Châu tại Ðông Lục, khiến trái tim nàng hồi hộp rộn ràng. Nàng cắn chặt môi, cầm một cây bút lông, và bắt đầu viết cho Bạch Huệ. Khi nàng nhìn ra ngoài cửa sổ, bầu trời nửa đêm thấp thoáng hàng ngàn tinh tú, trong lúc ngang bầu trời giải Ngân Hà treo chênh vênh chia cách hai người tình trên trời. Nàng có thể nghe thấy giọng của Tần Châu thì thầm trong tai nàng về sự ao ước không đè nén được của Ngưu Lang và Chúc Nữ, “chỉ được phép gặp nhau một năm một lần như chúng ta.” Nàng tưởng tượng nàng có thể nghe thấy hơi thở dồn dập của chàng.

“Bạch Huệ thân mến,

Tôi rất xúc động đọc thư chị và biết cái gì đã xảy ra cho Tần Châu. Tôi cứ tự hỏi, Có phải đó là lỗi của tôi không? Tôi không viết cho chàng. Tôi nghĩ rằng chàng không bao giờ tha thứ cho tôi. Nhưng viết cho chàng tôi còn ngại hơn, sợ rằng sẽ khơi lại vết thương cũ. Tôi chỉ có thể nói điều này với chị. Tim tôi và hồn tôi từ lâu đã trao cho chàng rồi, và tôi cố gắng quên chàng, tôi không còn ý chí riêng nữa. Tôi không biết cái gì đã xâm chiếm tôi. Tôi không còn tìm thấy bản chất tôi nữa. Tôi cảm thấy giống như một con tầu bị lật chìm ngoài biển khơi. Tôi có thể làm gì?

Bạch Huệ ơi, kể từ khi tới Bắc Kinh, tôi chưa có thể tìm thấy hạnh phúc mà tôi hy vọng. Hoàn cảnh mau lẹ trở thành buồn cười vô lý. Tôi biết đó là lỗi tại tôi. Anh họ tôi hoàn toàn là một người lý tưởng ở tuổi của anh. Không, không có một sự khác biệt nào của hai mươi năm giữa hai chúng tôi, nếu tôi có thể quên được Tần Châu. Chị đã biết, tôi không thể quên được. Tình yêu của chàng đã nhập vào máu huyết tôi, vào sương tủy tôi, trong đáy sâu kín đáo nhất trong con người của tôi rồi.

Tôi sẽ làm gì? Cho tôi biết tôi sẽ phải làm gì? Tim tôi đã tan nát rồi. Tôi từ bỏ chàng bởi vì không thể mãi mãi chỉ gặp chàng một hay hai lần một năm. Tôi sẽ làm gì với thời giờ còn lại? Chị sẽ hiểu. Nhưng làm sao tôi có thể quên được? Ngay từ đầu, sự gặp gỡ của chúng tôi vừa đau đớn vừa kích thích, lạc thú được ôm nhau bao giờ cũng kèm theo nỗi sợ hãi xé tim khi phải rời xa nhau. Trong khi chàng có thể sống bình thường thì tôi phải trở về với người chồng tôi không yêu. Tôi từ bỏ bản thân vì biết rằng chỉ mình tôi có thể hiến cho chàng một sự hòa hợp duy nhất của tâm hồn và thể xác; tôi tự hành hạ để cho chàng lạc thú. Cảm giác của tôi rất nhạy bén những lúc hiếm hoi ấy mà chúng tôi có thể gặp nhau; tôi đã mù quáng trước sự thật, và sống trong cơn ngây ngất được làm vợ chàng.

Hậu quả của những cuộc gặp gỡ như thế khiến cho cảm giác của tôi sắc nhọn đến không thể chịu đựng được. Tôi trở thành một người đàn bà hoàn toàn thức tỉnh, nhạy cảm với tinh tú ban đêm nhìn xuống tôi, và mặt trăng hôn tôi và làn gió nhẹ lén qua cửa sổ vuốt ve cánh tay và lưng tôi, trong lúc tôi nằm gần như lõa thể trong phòng – một ham muốn trỗi dậy mà không được thỏa mãn. Căn bệnh của tôi, những con nhức đầu, sợ hãi ánh sáng đã đảo lộn tâm trí tôi, biến thân xác tôi thành hàng ngàn tế bào mềm nhũn, rách nát của một cảm giác bị thương tổn. Tôi có một cảm giác ảo tưởng về tất cả những gì quanh tôi, và hầu như không đủ cảm giác để trở về với một người chồng vô tâm, và làm phận sự của một người vợ và con dâu giống như một người máy… Kiểm điểm lại quá khứ có ích gì? Tôi chỉ muốn cho chị biết rằng tôi rất hoang mang và không biết phải làm gì.

Tôi rất lo sợ cho chính tôi; lòng hoài nghi và sợ hãi bắt đầu dâng lên. Có phải vì tình yêu của tôi đối với Tần Châu khiến tôi không thể nào dâng cho Mạnh Giao một tình yêu trọn vẹn mà chàng ao ước? Tôi biết Mạnh Giao sẽ đau khổ lắm, bởi vì chàng quá tốt với tôi. Thực là kỳ lạ, nhưng tôi có lẽ sẽ phải coi chàng chỉ là “quan hàn lâm của chúng tôi”, chứ không phải là một người yêu. Tim tôi đã trở thành một con tin rồi. Tôi không quan tâm nếu thể xác tôi làm cái gì. Chị có hiểu tôi không?… Lá thư này thực là rời rạc như cảm giác của tôi.

Bạn của chị,

Mẫu Ðơn”

Không khí tháng Tư rộn rã với tiếng hót tình ái của chim chóc, và sự mời gọi của đồi Tây Sơn. Khắp nơi, đời sống trở lại với mặt đất khô héo của mùa đông. Ðồi Ngọc Tuyền và Bát Ðại Ðiện, bên ngoài công viên Càn Long và đền Phật Ngủ, cống hiến rất nhiều địa điểm khác nhau cho những cuộc du xuân.

Một buổi tối sau bữa ăn, Mạnh Giao và Mẫu Ðơn ngồi trong thư phòng. Hải Ðường vào trong bếp dặn dò người đầu bếp cho ngày hôm sau, và đang bước về phòng riêng để lau rửa. Nàng thường tránh mặt khi thấy hai người ở bên nhau, dù biết trong thư phòng ấm cúng hơn. Khi nàng đi ngang để vào phòng, Mạnh Giao lên tiếng gọi:

– Tứ muội, vào đây nói chuyện.

– Chuyện gì vậy?

– Chỉ là chuyện phiếm thôi. Trong này thích hơn.

– Ðược rồi. Em sẽ trở lại.

Vài phút sau nàng bước vào, mặt rạng rỡ nét thanh xuân tự nhiên của tuổi trẻ, tóc chải lại thành một con suối bóng mịn. Nàng thay mặc một bộ quần áo màu xanh đơn giản, tương tự như Mẫu Ðơn, giống như quần áo nàng thường mặc ở nhà. Chiếc áo ngắn hơn và ống tay áo hẹp hơn, nhưng cũng không kém lộng lẫy. Nàng liếc nhìn chị. Mẫu Ðơn cố gắng nhưng vẫn cảm thấy bồn chồn; nàng ngồi trên một chiếc ghế gỗ và là hình ảnh của tuổi trẻ, chân tựa vào cạnh lò sưởi. Hải Ðường khẽ ngồi xuống chiếc ghế tựa bọc lông thú. Mẫu Ðơn hỏi:

– Tại sao em nhìn chị thế?

Hải Ðường mở to mắt ngạc nhiên. “Em đâu có nhìn chị.” Nàng quay lại, ngây thơ nhìn Mạnh Giao và nói bàng một giọng nhẹ, thanh thoát, như thể không có chuyện gì xảy ra, “Anh chị đang nói chuyện gì?”

– Nói về em.

– Nói về em?

– Phải, anh nói thật là may mắn có em đến ở đây…

– Em biết. Anh chị sống trên mây. Em không đánh giá em thấp. Một căn nhà là một căn nhà. Phải có người trông nom. Anh không cảm thấy ngủ ngon trên những khăn giường sạch sẽ ư? Em nói thật đấy.

– Anh thực tình biết ơn những gì em đã làm.

– Dường như chúng ta thiếu khăn giường. Em đang nghĩ mua thêm vài cái nữa, được không?

– Em không cần phải hỏi. Cứ việc mua bất cứ cái gì em cần.

– Thực ra anh chị đang nói chuyện gì?

– Anh sẽ đi xa khoảng nửa tháng. Em đã được xem đường xe lửa Bắc Kinh- Thiên Tân. Hoàng đế đã chuẩn y cho xây một đoạn nối tiếp tới Sơn Hải Quan. Việc xây cất đã liên tục hai năm qua và sắp hoàn tất. Ðường xe lửa này gần như chạy song song với Vạn Lý Trường Thành, sẽ giúp chúng ta có thể di chuyển quân đội trong một ngày, thay vì phải đi bộ một tuần. Bây giờ quân ngoại quốc đóng tại Ðường Cô, chúng ta không thể để bị bao vây. Chúng ta phải có khả năng chuyển quân mau lẹ từ Mãn Châu. Anh sẽ đi thanh tra công việc xây đường xe lửa này cùng với một nhóm kỹ sư người Anh và người Hoa. Ðức Hoàng Thượng rất hài lòng khi nghĩ có thể xây một đường xe lửa khác nối liền Bắc Kinh và Nhiệt Hà. Hai kỹ sư người Anh năn nỉ anh đi với họ thăm Lăng Tẩm Nhà Minh. Anh nghĩ hai chị em cũng muốn đi theo; đây là một cơ hội hy hữu.

Hải Ðường rất hứng khởi reo lên, “Ôi, Lăng Tẩm Nhà Minh!”

– Cuộc hành trình tới Lăng Tẩm Nhà Minh chỉ mất hai hay ba ngày thôi, và thời tiết rất thích hợp cho một chuyến du xuân.

Hải Ðường hỏi Mẫu Ðơn, “Chị không thích đi xem hả?”

– Không. Tại sao chị phải đi xem mộ của các hoàng đế đã chết chứ? Chị thà ở nhà còn hơn.

Mạnh Giao xen vào, “Ðấy là lý do tại sao anh nghĩ chúng ta phải nói chuyện với nhau. Có lẽ em có thể khuyến dụ được chị em. Nếu các em không đi bây giờ, thì còn lâu lắm mới có cơ hội nữa, hoặc là lúc đó khí hậu sẽ nóng. Và hơn nữa ai biết được?… Anh có thể bị phái đi một nơi khác.”

Hải Ðường trả lời, “Em muốn đi lắm. Và chúng ta có thể xem cái đèo Chung Quan nổi tiếng gần Vạn Lý Trường Thành, một nơi em vẫn mơ ước.”

– Này em, nếu em thực tình thích thì em cứ đi với đại ca đi.

Giọng của Hải Ðường cứng rắn và cương quyết, “Không. Nếu chị không đi, em cũng không đi.”

– Em cứ đi với đại ca đi, nếu em rất ước muốn được xem cảnh ấy.

– Không, em sẽ không đi nếu chị không đi cùng.

Mạnh Giao chấm dứt bằng một giọng thất vọng nặng nề. “Thôi, thế được rồi.”

Mạnh Giao phải lên đường vào ngày mười bảy. Ðêm ngày mười sáu, chàng nói với Mẫu Ðơn, “Ðây là lần đầu tiên hai ta phải xa nhau kể từ khi em đến đây. Anh ước muốn em phải bảo trọng. Hãy đi chơi cho khuây khỏa. Anh sẽ viết thư luôn. Nhưng cũng chỉ có khoảng nửa tháng thôi mà.”

Khi hai người ôm nhau, Mạnh Giao rất ngạc nhiên thấy mắt nàng ướt.

– Tại sao em khóc?

– Em không biết.

– Em không có hạnh phúc phải không?

– Dĩ nhiên là em hạnh phúc rồi.

– Tại sao em không đi với anh? Em không muốn xem Lăng Tẩm Nhà Minh và Vạn Lý Trường Thành hay sao? Em có thể xem hai nơi trong cùng một chuyến đI.

– Chỉ vì đôi khi em muốn ở riêng một mình.

– Tại sao?

– Em không biết.

– Em không lo lắng về em gái em, phải không?

– Không. Em tin tưởng nó hoàn toàn.

– Em nghĩ vậy rất đúng.

Có một cái gì xen giữa chàng và nàng; chàng không biết đó là cái gì.

– Có lẽ tại tâm trạng em. Hãy ngủ ngon và sáng mai em sẽ cảm thấy dễ chịu hơn. Chỉ cần cho anh biết khi nào em muốn ở một mình, và anh sẽ tôn trọng ý muốn của em.

Ngày hôm sau Mạnh Giao đi Nam Khẩu cùng với các kỹ sư người Anh. Cứ hai ba ngày hai chị em lại nhận được thư của chàng, gửi cho Mẫu Ðơn, thường có hai hoặc ba trang viết bằng nét chữ mạnh mẽ sắc cạnh của chàng. Chàng rất thận trọng trong những lá thư ấy, không đi quá những thành ngữ thông thường như “ao ước” và “nhớ nhung” ở đoạn đầu, và hy vọng hai chị em mạnh khoẻ ở đoạn cuối. Mẫu Ðơn thường đọc lướt lá thư trước rồi đưa cho em gái. Chàng có sở trường gợi hình ảnh trong một câu ngắn, khéo léo gợi ra xúc cảm nồng nàn, chẳng hạn như “mây trên đèo bỗng mở ra,” hoặc “vịt trời bay ngang bầu trời,” hoặc “anh nghe thấy những âm điệu buồn bã của tiếng sáo Mông Cổ vào ban đêm,” những câu này rất hoà hợp với cái ý “nghĩ đến em.”

Trong lúc chủ nhân vắng nhà, đầy tớ rất là thoải mái, đồ ăn đơn giản hơn, và không có nhiều việc phải làm. Hai chị em làm chủ chiếc xe ngựa; mùa xuân đang mời gọi và có nhiều nơi đi chơi. Một lần họ đi chơi mãi tận Ðền Thanh Vân dưới chân đồi Tây Sơn, tại đó người ta có thể trông thấy toàn thể thành phố Bắc Kinh với những mái vàng của Tử Cấm Thành ở giữa. Hai chị em rất vui thích, nhưng vẫn nhớ Mạnh Giao. Ðấy là một ngày đẹp, trong sáng hoàn toàn không có mây, nhưng không có nhiều hứng thú cho hai chị em đi du xuân một mình. Hải Ðường là một cô gái bảo thủ, không bao giờ nghĩ đến việc tìm kiếm bạn trai. Nàng cũng không hề nói đến chuyện ấy; đó là việc của cha mẹ và anh họ nàng phải tìm nơi xứng đôi vừa lứa cho nàng. Việc ấy không cần phải bàn luận, và rõ ràng là bổn phận của người trên.

Một buổi chiều, Mẫu Ðơn một mình trở lại Thiên Kiều. Cái ngày người võ sĩ nhìn nàng và hát một bài tình ca cho nàng để lại một ký ức thú vị trong tâm trí nàng. Thực là sung sướng cho một người đàn bà được nhìn, được chiêm ngưỡng và được tán tỉnh bởi một thanh niên có một nụ cười trong sạch với hàm răng trắng bóng như thế, dù nàng không biết chàng ta có vợ hay chưa. Người thanh niên ấy có tất cả sự hấp dẫn của tuổi trẻ, vai và chân tay thật đẹp đẽ mạnh mẽ.

Nàng đi, hy vọng gặp lại chàng – mặc dù nàng cảm thấy sẽ không có gì nghiêm trọng giữa hai người. Nàng yêu thích cử động mau lẹ duyên dáng và bộ ngực nở nang mạnh mẽ của chàng. Nàng muốn nghe chàng hát bài ca ấy một lần nữa, và nhìn hàm răng trắng của chàng lấp lánh trong tiếng cười khoái trá khi chàng hát “Tình tính tang!”

Nàng đứng vơ vẩn xem một buổi biểu diễn quyền thuật. Nàng thất vọng không thấy người võ sĩ trẻ lần trước. Hai võ sĩ đang biểu diễn, một người đuổi theo tấn công và một người ở thế thủ; nhưng người nhỏ hơn ở thế thủ lùi bước, lại được khán giả chú ý, vì thỉnh thoảng tung ra một cú đá làm ngã đối thủ, rồi lại tiếp tục rút lui. Giống như một cảnh mèo chuột vờn nhau trong đó con chuột là vai chính. Khán giả thích cảnh ấy. Dĩ nhiên đó là một cảnh đã tập luyện nhiều, nhưng khán giả vẫn ưa thích, đặc biệt là người võ sĩ nhỏ con tỏ ra nhanh nhẹn và tấn công tàn bạo.

Mẫu Ðơn cười cùng với mọi người, và cầm một chiếc khăn tay che miệng để tránh đất cát văng lên khi hai võ sĩ đá nhau. Chợt một bàn tay vỗ nhẹ lên vai nàng từ phía sau. Nàng quay lại và nhận ra ngay đôi mắt lóng lánh và nụ cười tươi rộng của người võ sĩ lần trước. Hai người trao đổi một nụ cười dễ dàng và vô tư.

– Chính là cô nương trong buổi biểu diễn nửa tháng trước, phải không?

Mẫu Ðơn mỉm cười gật đầu. “Tại sao hôm nay anh không biểu diễn?” Rồi nàng nói thêm bằng một giọng nhẹ nhàng và rất ngây thơ, “Tôi tới xem anh biểu diễn đấy.”

– Thực hả? Tên cô là gì, cô nương? Hôm đó cô không phiền lòng tôi hát chứ?

– Không, chẳng phiền gì cả. Tôi thích lắm. Tôi biết anh cần phải làm trò vui.

Nàng cảm thấy dễ dàng khi nói chuyện với một người cùng tuổi với nàng.

– Tên cô là gì?

– Tôi không có tên.

– Nếu vậy là Vô Danh cô nương.

Rồi chàng đề nghị, “Thôi đi chỗ khác!” và không cần biết nàng bằng lòng hay không, nắm tay nàng lôi đi. Nàng vui vẻ đi theo, thích thú trước sự dơn giản thẳng thắn của chàng.

Hai người bước vào một quán trà trong một cái sân vây kín bên dưới mấy cây lê và gọi trà. Từ xa vẳng lại tiếng trống và chũm choẹ và tiếng hát réo rắt từ một rạp hát lộ thiên đâu đó. Nàng chăm chú quan sát chàng. Chàng không to con hoặc vạm vỡ, nhưng khuôn mặt rất đẹp với chiếc cằm rắn chắc; mặt chàng mịn màng, rắn rỏi và mạnh mẽ. Trong cái góc ấy dưới bóng cây xanh, ánh sáng chiếu rọi vào cái hình dáng chắc nịch. Một sự phản ảnh rung rinh chuyển động từ đâu đó đùa rỡn nhảy múa trên cái thân thể ấy và chiếu sáng mái tóc bồng bềnh của chàng.

– Tại sao hôm nay anh không biểu diễn?

– Tôi chỉ là một võ sĩ tài tử. Hôm ấy tôi là võ sĩ khách của họ.

– Tài tử?

– Phải. Ðây không phải là nghề của tôi. Họ là bằng hữu của tôi. Cô không hiểu tình huynh đệ trong làng võ đâu. Chúng tôi là huynh đệ. Họ thấy tôi có đủ khả năng, và cho tôi một cơ hội để trình diễn. Không tệ lắm, phải không?

– Anh biểu diễn hay lắm. Anh phải cho tôi biết tên.

– Phùng Nam Ðạt. Tôi sống ở ngay đây.

Nụ cười đơn giản không kiểu cách của chàng làm nàng an tâm. Chàng chiêm ngưỡng nhìn nàng và thốt lên, “Trời ơi, cô đẹp quá!”

Chưa có ai từng nói một cách thẳng thắn và cởi mở như thế. Nàng gọi tên chàng và hỏi, “Nam Ðạt, anh làm nghề gì?”

– Tôi có một cửa tiệm nhỏ và một ít đất ở nhà quê. Quyền thuật chỉ là thể thao của tôi.

– Anh còn làm gì nữa?

– Về thể thao ư? Cầu lông. Có một hội quán cầu lông tuyệt vời gần đây. Hôm nào tôi sẽ dẫn cô tới đó. Và Thái cực quyền nữa, lối tập thể dục nhịp điệu ấy. Tôi là một người chậm hiểu. Tôi không thích hợp cho sách vở.

Chàng nói một cách chậm chạp, thứ tự và rõ ràng. Chàng hỏi, “Hãy cho tôi biết cô là ai và nhà ở đâu.”

Mẫu Ðơn mỉm cười và lắc đầu, “Không.” Nàng nghĩ nếu chàng biết nàng thuộc về một gia đình hàn lâm thì chàng sẽ hoảng sợ bỏ đi ngay.

Nam Ðạt năn nỉ, “Ðừng bí mật như thế. Cô là con nhà giầu phải không? Người ta có thể nghĩ như thế khi nhìn mặt cô.” Chàng nhìn khắp thân thể nàng bằng một cách nhìn khiến nàng cảm thấy chàng có thể nhìn xuyên qua quần áo nàng.

– Nam Ðạt, tôi thuộc một gia đình tầm thường.

– Chưa có chồng? Hãy cho tôi biết nếu cô có chồng rồi. Tôi muốn biết trước.

– Chưa.

Rồi nàng nói tiếp, “Chồng tôi chết rồi.”

– Vậy thì cô là ai?

– Vô Danh cô nương, như anh nói. Anh là một người đàn ông, tôi là một người đàn bà. Như thế chưa đủ sao?

Ngay khi nói xong, nàng lập tức nhận thấy rằng nàng đã lỡ lời, nhưng quá trễ để rút lại. Chàng có thể hiểu lầm. Nàng đứng dậy bước đI.

– Tôi có thể gặp lại cô ở đâu?

Chàng không hỏi xem chàng có thể gặp lại nàng không. Nàng nhìn nụ cười trong sạch, ánh mắt thẳng thắn và mái tóc đen của chàng và trả lời, “Tôi không biết.”

– Khi nào tôi có thể gặp cô?

– Tôi không biết… Ở đây xa quá. Tôi sống ở khu Ðông.

– Tôi sống ở khu Tây. Nếu cô tử tế xin cho biết tôi tìm cô ở đâu.

– Anh muốn lắm không?

– Muốn lắm. Thôi mà, tôi sẽ đi với cô một quãng. Rồi cô có thể về nhà nếu cô không muốn cho tôi biết cô ở đâu.

Nàng cảm thấy thú vị đi bộ với chàng. Khi hai người tới gần đại lộ Chính Môn, bước chân của hai người dễ dàng ăn nhịp với nhau, một nhịp điệu của tuổi trẻ. Tay chàng mạnh mẽ nắm cánh tay nàng. Cả hai cùng biết và cùng giả bộ không biết rằng bàn tay của chàng đang khoác trên cánh tay nàng, đã đụng vào ngực nàng, và đang cọ vào vú nàng.

– Tôi đề nghị chúng ta sẽ gặp nhau tại Ðông Ðàn Bạch Lầu. Khi nào cô tới được?

– Bất cứ lúc nào, bất cứ ngày nào. Hay là ngày mai, lúc năm giờ chiều?

Hai người đồng ý. Chàng kiếm cho nàng một chiếc xe kéo và nhắc nhở, “Ngày mai, năm giờ chiều.”

Sự gặp gỡ Phùng Nam Ðạt đã giúp tâm trí nàng khỏi ủ ê; đây là một sự tán tỉnh vô tội và thú vị. Nàng thấy chàng vui vui, dễ chịu và thoải mái; không giống như nói chuyện với một nhà học giả. Nam Ðạt không có những ý tưởng trừu tượng và không có những lý thuyết bất cứ loại gì về đời sống con người. Chàng chắc hẳn là không biết gì về sách vở, nhưng đã đem lại cho nàng cái cảm giác của một con người trẻ trung, thẳng thắn và mạnh mẽ, và sẵn sàng đương đầu với đời sống thô sơ nguyên thủy. Nàng cũng biết chắc rằng sẽ không có vướng víu tình cảm. Mạnh Giao và Phùng Nam Ðạt khác hẳn nhau. Hai loại người này rất khác biệt và nàng không phải lo sợ chính nàng.

Cái ấn tượng này được xác định và gia tăng trong những lần gặp gỡ kế tiếp. Nàng thường ra đi lúc năm giờ chiều, chiếm một chỗ ngồi tại một quán rượu lộ thiên, và nhìn ra quang cảnh trôi qua ngoài đường phố. Lúc đó đã là cuối tháng Tư rồi; ngày dài hơn và trời còn sáng vào lúc sáu giờ tối.

Ðời sống trong các quán rượu và quán trà là đời sống thực của thành phố, tại đó kẻ giầu người nghèo hoà lẫn với nhau và có quyền hưởng đời trong lúc nhìn thế giới đi qua. Trong quán tượu có mùi bánh mì mới nướng và thịt trừu chiên. Gần Bạch Lầu bao giờ cũng có một đám phu xe chờ đợi khách. Ðám phu xe cũng thường vào quán rượu, lê những đôi dép phủ đầy bùn. Họ thường gọi mua một cân rượu và bắt đầu nói nhảm nhí, mồ hôi trên mặt nhỏ giọt. Có tên cởi chiếc áo choàng rách rưới ra và móc lên lưng ghế, và nới lỏng giây thắt lưng, cho gió thổi mát hạ bộ trước công chúng. Một số là những thanh niên lực lưỡng. Mẫu Ðơn ngồi xem một cách hào hứng khi nàng nghe thấy những tiếng tục tĩu nhất từ cửa miệng phu xe; có nhiều tiếng nàng không hiểu.

Nàng thường gọi bốn cân rượu Thiệu Hưng và ngồi tại một chiếc bàn con thô sơ nhưng sạch sẽ. Nếu Phùng Nam Ðạt không có mặt, một người khác, có thể là một tên lính trong quân phục bước lại gợi chuyện với nàng. Nàng trẻ, đẹp và tự nhiên như thế. Sự tán tỉnh thường là của giới trẻ. Nàng ăn mặc sang trọng, nhưng rất có thể nàng đi ra ngoài một mình, và nhiều người hẳn đã nghĩ nàng là một người thuộc giới đi ngang về tắt.

Phùng Nam Ðạt thường tới ngồi đây, chia xẻ cái thú ngắm đường phố với nàng. Về một phương diện, chàng làm chủ quang cảnh. Chàng đúng là hiện thân của sinh hoạt đường phố; chàng không cho phép cái gì trái phép xảy ra, những gì không công bằng theo tập tục Bắc Kinh. Một lần có một cuộc cãi vã bên ngoài quán rượu về giá xe. Một người khách Thượng Hải nhấn mạnh ông ta đã trả đủ tiền xe rồi, trong khi người phu xe túm áo ông ta và đòi ông ta phải trả thêm. Phùng Nam Ðạt bước ra và hỏi người khách lạ, “Ông đi xe từ đâu? Ông đã trả bao nhiêu rồi?” Người khách lạ cho biết nơi lên xe và số tiền đã trả. Không nói một lời, Phùng Nam Ðạt táng cho người phu xe một cái và đuổi đi chỗ khác. Người phu xe kéo xe chạy đi như bay. Phùng Nam Ðạt quay trở vào và bảo Mẫu Ðơn rằng người phu xe đã lợi dụng khách lạ vào thành phố. Chàng bực mình quát tháo, “Không có vương pháp gì cả!” Chàng thực tình tức giận như thể đó là một sự xúc phạm cho chính Bắc Kinh.

Một lần chàng dẫn nàng đến hội quán đánh cầu. Nàng rất bội phục cách chàng đá trái cầu lên, để trái cầu nằm trên trán chàng, rồi hất xuống và đá hậu trái cầu lên. Chàng lanh lẹn như một con khỉ. Một lần khác hai người mất cả một ngày trèo bức tường thành Mông Cổ ở phía bắc, và chàng phải bồng nàng xuống trong cánh tay mạnh mẽ của chàng.

Chàng lúc nào cũng làm nàng vui, mà không cần có một lý thuyết nào trong đầu. Nàng đoán chàng gần như mù chữ, nhưng bù lại có một nụ cười trong sạch. Chàng khâm phục những người mà chàng cho là anh hùng như Quan Công mặt đỏ và Trương Phi mặt sắt của thời Tam Quốc mà chàng biết được trên sân khấu rạp hát. Bao giờ chàng cũng là một người bạn tốt, nhưng nàng không có ý định dan díu hoặc yêu thương người đàn ông này.

Tuy thế nàng rất quyến luyến chàng. Nàng say mê đôi mắt tinh anh và tiếng cười trẻ trung của chàng, khác hẳn với vẻ trầm tư chín chắn của Mạnh Giao; hơn nữa da chàng căng mịn hơn da của Mạnh Giao, và chàng có mái tóc rất đẹp. Như đàn ông thường cảm thấy sự hấp dẫn quyến rũ thể xác trong lành của người con gái, Mẫu Ðơn cũng cảm thấy khích động hào hứng bên cạnh một ngưòi đàn ông trẻ, thân thể tráng kiện cùng trạc tuổi với nàng. Ðó là sự tự nhiên. Nếu có ai đùa với trái tim và xúc cảm của Mẫu Ðơn, thì đó chính là thiên nhiên.

Mẫu Ðơn đến quán rượu thường xuyên. Có ngày nàng thành công chống lại sự cám dỗ phải đi, và ở nhà với em gái. Hải Ðường biết rằng tâm trí nàng có chuyện gì. Nàng hơi lo lắng không thể viết xong lá thư nàng dự định gởi lúc bốn giờ chiều. Hoặc nàng ngáp vắn ngáp dài, than phiền rằng nàng thực tình không muốn đi đâu cả nhưng không còn việc gì khác để làm. Nàng cũng ngồi nhổ lông mày rất cẩn thận thêm vài phút trước tấm gương, trước khi đi đến quán rượu.

Mẫu Ðơn biết nàng đã để mặc tình cảnh lôi cuốn, và chắc chắn không có khả năng chấm dứt mối liên hệ này, mà lúc đầu rất là ngây thơ vô tội. Nàng tránh được một tuần lễ, cố gắng chống lại sự thúc giục phải đi, bởi vì một lời nói buột miệng, làm cho nàng có vẻ sẵn sàng cho một cuộc phiêu lưu tình cảm: “Anh là đàn ông và tôi là đàn bà. Thế chưa đủ sao?” Nàng chắc rằng Phùng Nam Ðạt đã hiểu lầm nàng. Chàng tới quán rượu hàng ngày để chờ nàng, nhưng đôi khi không thấy Vô Danh cô nương. Chàng bước lại ngồi vào bàn, chăm chú nhìn ra đường phố tìm kiếm, hy vọng một hình ảnh con gái xinh đẹp sẽ trở thành Vô Danh cô nương; cuối cùng chàng bỏ đi, nghi ngờ nhưng vẫn hy vọng, tìm ra lý do tại sao nàng không thể đến được.

Một buổi sáng, khoảng mười một giờ, nàng đụng phải chàng tại góc ngõ Ðồng Phủ và đại lộ Trường An. Chàng trông thấy nàng từ phía sau, và vừa phóng vội lại, vừa gọi, “Ðừng bỏ chạy, cô nương, đừng bỏ chạy!” Nàng quay lại và trông thấy chàng. Ðúng là Phùng Nam Ðạt, đôi mắt nhìn nàng năn nỉ. Nàng bật ra một tiếng “Anh!”; cái tiếng ngắn ngủi ấy có ý nghĩa bằng ngàn thứ trong tai chàng.

– Mấy bữa nay cô ở đâu? Tôi lại quán rượu mỗi ngày. Tại sao cô không đến? Tôi có xúc phạm cô không? Tôi lang thang khắp mọi ngả đường với hy vọng gặp được cô.

– Tôi đang đi về nhà.

– Cô không thể trốn tránh tôi được đâu.

– Tôi phải về nhà. Tôi van anh.

– Thế thì tôi sẽ đi theo cô.

Nhưng nàng đứng yên, chân nàng như dính chặt vào mặt đất. Tim nàng hồi hộp. Nàng cảm thấy chân nàng mềm nhũn khi chàng nắm tay nàng, bắt nàng quay lại và đi cùng một hướng. Hai người sóng đều bước bên nhau, và mặc dù nàng không muốn, nàng cảm thấy rất tuyệt diệu khi chàng nắm lấy cánh tay nàng và bóp chặt.

– Anh đi đâu vậy?

– Bất cứ đâu cô muốn.

Nàng muốn bỏ đi. Nàng đã gặp chàng nơi công cộng, nhưng nàng chưa biết gì về chàng. Phùng Nam Ðạt năn nỉ:

– Xin cô cùng tôi tới một khách sạn để cùng nhau nói chuyện cho thoải mái và tìm hiểu nhau. Tôi hứa sẽ không làm phiền cô.

– Làm sao tôi biết chắc thế?

– Tôi thề có vong linh mẹ tôi. Và vì tôi yêu cô. Hãy bảo tôi cô muốn gì, tôi sẽ làm ngay.

– Nhảy xuống cống.

Phùng Nam Ðạt liền nhảy ngay xuống cái cống nước lộ thiên bên đường. Làn nước bùn cạn bắn lên tung toé. Khi chàng trèo lên bờ cống, mặt chàng đầy nước bùn.

Mẫu Ðơn cười khanh khách. Lấy ra một chiếc khăn mặt, nàng lau mặt chàng và mỉm cười nói, “Anh thực là điên. Tôi chỉ nói đùa thôi.”

– Nhưng tôi điên vì cô.

Nàng chăm chú nhìn chàng. Chàng là một thanh niên trẻ, có lẽ chưa trưởng thành, nhưng chàng yêu nàng như một người trẻ tuổi yêu, nàng biết chắc thế.

– Nếu anh hứa đứng đắn, tôi sẽ là bạn của anh. Chỉ là bạn thôi, anh hiểu không?

– Bất cứ điều gì cô muốn. Tại sao cô bí mật vậy?

Phùng Nam Ðạt tin rằng nàng không phải là giới đi ngang về tắt, và như vậy nàng càng có vẻ lôi cuốn và bí mật hơn.

– Tôi muốn hỏi, anh có vợ chưa?

– Nếu tôi có vợ thì sao? Có gì khác không?

– Không, nếu chúng ta chỉ là bạn.

Chàng bắt đầu kể về cuộc hôn nhân khốn khổ của chàng, vợ chàng thực là một người đàn bà độc ác, và chàng không dám nhìn một người đàn bà khác ngoài đường phố hoặc trong rạp hát.

– Này thôi, hãy gọi xe kéo. Tôi biết một khách sạn rất tốt tại đó chúng ta có thể nói chuyện yên lặng với nhau.

Khách sạn này hơi nhỏ, ngay đằng sau khu “phố đèn đỏ” bên ngoài Chính Môn, nơi các lái buôn thường ở vì vừa rẻ vừa sạch sẽ. Hai ngưòi nắm tay nhau bước lên cái cầu thang lờ mờ tối. Mẫu Ðơn cảm thấy chân nàng mềm như cao su, trái tim đập loạn xạ. Chính cái hành động bí mật bước lên phòng riêng với chàng đã khích động nàng, và tạo cho nàng sự hồi hộp rung động khi làm một điều cấm kỵ.

Hai người khép cửa lại sau lưng. Chàng gọi một bình trà. Trong lúc đợi trà, chàng làm nàng ngạc nhiên khi chàng hôn lên cổ nàng rồi xin lỗi nàng. Nhưng dĩ nhiên nàng biết chuyện ấy sẽ đến, từ cách chàng ôm nàng từ phía sau lúc bước lên cầu thang.

Người bồi mang trà lên và cửa được đóng lại. Chàng cẩn thận khoá cửa. Mẫu Ðơn cảm thấy rất tội lỗi và bối rối; nàng ngồi trên giường hai tay để lên lòng. Chàng muốn tới bên nàng, nhưng nàng nói:

– Không, anh ngồi kia. Chúng ta chỉ nói chuyện thôi, phải không?

Chàng vâng lời nàng và ngồi xuống ghế bên cạnh cửa sổ, và không rời mắt khỏi nàng. Chàng rót cho nàng một tách trà, và cho chàng một tách. Nước trà dường như làm chàng bình tĩnh lại. Chàng có thể trấn tĩnh đôi chút và bắt đầu kể cho nàng biết về vợ chàng. Chàng nói chàng không kết hôn với một người vợ, mà là một cai tù. Rồi chàng cho biết mấy hôm vừa qua chàng rất ngẩn ngơ chỉ nghĩ đến nàng. Chính buổi sáng hôm nay chàng đã cãi nhau với vợ vì chàng cứ hay vắng nhà; chàng chỉ cho nàng một chỗ trên trán mà vợ chàng đã túm tóc chàng và giật đứt mấy lọn tóc.

– Tôi chắc chỗ đó vẫn còn đỏ.

Mẫu Ðơn nhìn. Có những vết máu tím trên tóc chàng. Chàng lại gần nàng hơn nữa, rồi ngồi ngay bên cạnh nàng, tay bóp mạnh đùi nàng

– Xin đừng. Hãy nhìn giầy của anh kìa.

Nàng chỉ tay vào đôi giầy và bật cười ròn rã. Chàng cũng cười, đứng dậy và dậm chân xuống sàn nhà

– Hãy cởi ra. Anh không thể làm khô giầy bằng cách ấy.

Cái ý tưởng đó làm hai người cùng buồn cười.

– Anh không biết anh trông buồn cười thế nào khi anh trèo từ cống lên.

Nàng bắt đầu cười như điên dại, và chàng cũng cười theo. Ngay lúc đó có tiếng đập cửa. Phùng Nam Ðạt tái mặt. Tiếng cười của hai người im bặt và chàng nói thì thầm:

– Không thể là cảnh sát. Chắc là vợ tôi. Tôi chắc là vợ tôi theo dõi tôi đến đây.

– Tôi phải làm gì?

Một giọng đàn bà hét lên qua khe cửa: “Mở ra ngay. Tôi biết anh ở trong đó. Mở ra!” Tiếp theo là những tiếng đập cửa mạnh hơn nữa.

Bình tĩnh, Phùng Nam Ðạt nói khẽ, “Bây giờ cô sẽ trông thấy hành động của tôi. Tôi sẽ mở cửa bất thình lình. Cô nấp sau cánh cửa. Hãy lách ra ngay lập tức, trước khi mụ ta trông thấy cô.”

Rồi chàng la to, “Tôi mở đây.” Chàng rón rén khép cửa sổ cho phòng tối lại. Không một tiếng động, chàng mở khoá, tay trái nắm lấy Mẫu Ðơn. Rồi bất thình lình, chàng mở banh cửa và một người đàn bà bị nhào theo cánh cửa, lao rất mạnh vào phòng và ngã lộn đầu. Cùng lúc ấy chàng kéo đẩy Mẫu Ðơn ra ngoài. Nàng chúi xuống dưới cánh tay của chàng và phóng ra ngoài hành lang.

Nàng chạy hấp tấp xuống cầu thang, không chờ xem cái gì xảy ra trên phòng. Người thư ký khách sạn ngẩng lên nhìn, nhưng nàng đã bình yên ở ngoài đường; nàng chạy một quãng, rồi thuê một chiếc xe kéo. Vào lúc về đến nhà, nàng đã trấn tĩnh lại rồi. Hải Ðường hỏi:

– Tại sao hôm nay chị về sớm thế?

– Chị thấy chán lắm rồi.

Mạnh Giao bị mắc kẹt công vụ lâu hơn thường lệ, và mãi ngày mười tháng Năm mới trở về. Da chàng ửng đỏ vì chuyến đi, nhưng trông có vẻ hơi mệt, có lẽ tại chàng trở về trong một trận mưa như trút nước, một việc bất thường cho Bắc Kinh vào mùa ấy. Chàng nói chuyến đi làm chàng khoẻ ra. Chàng đã cưỡi ngựa đi đến tận Miêu Phong Sơn, sâu tận vùng Tây Sơn, trong một chuyến đi bốn ngày để giúp chàng bớt mỡ đi.

Khi trở về, chàng phải tham dự những cuộc hội thảo về chương trình xây đường xe lửa nối liền Bắc Kinh và Nhiệt Hà. Vì là một người hiểu biết rất rõ vùng đất ấy nên người ta trông cậy chàng rất nhiều.

Sau ba bốn ngày, chàng có thể nghỉ ở nhà, và đề nghị đi chơi đến Tiên Nông Ðàn. Chỗ này xa bên ngoài thành phố, tại đầu phía nam của Chính Môn lộ, bên ngoài Ngoại Thành, và có một giải đất trồng dâu rất đẹp. Trước kia hoàng đế thường ra đây làm lễ tế trời đất tại Thiên Ðàn vào ngày đông chí, và hoàng hậu cũng làm một lễ hái dâu nuôi tằm vào mùa xuân, với mục đích đề cao sự quan trọng của người nông dân và vợ trong đời sống quốc gia. Bởi vậy khu này gọi là Tiên Nông Ðàn, để tỏ rõ vai trò cần thiết hàng đầu của nông dân.

Hải Ðường không đi theo hai người, vì nàng tế nhị để cho hai người được đi riêng với nhau, đặc biệt là Mạnh Giao cũng mới trở về nhà. Quên hẳn tang phục goá phụ của nàng, nhất là tại Bắc Kinh không ai biết nàng là ai, Mẫu Ðơn mặc một chiếc áo trắng thêu những bông hoa màu xanh lớn, khiến nàng trông vô cùng lộng lẫy đẹp đẽ dưới mặt trời mùa xuân. Tóc nàng chải ngược ra phía sau, với một vài lọn tóc được vén khéo léo cho rủ trước trán.

Chàng nói về chuyến đi lâu dài của chàng, rồi đến truyện Mái Tây. Chính Mẫu Ðơn đã gợi đến truyện này trước. Chàng nói:

– Em có biết tại sao Mái Tây là truyện được ưa thích nhất trong các truyện tình không? Bởi vì đó là một tình yêu buông thả. Không ai dám thế. Nhưng Oanh Oanh dám. Truyện này có một giá trị liều lĩnh và hấp dẫn. Dẫu sao, có gì sai trái về một cô gái hoàn toàn trưởng thành có một mối tình sa ngã? Câu chuyện không thể làm độc giả chú ý nếu nàng được đính hôn đúng cách và cưới hỏi đàng hoàng, và sau đó làm tình với chồng. Tình yêu bao giờ cũng phá vỡ các biên giới. Cái phần đáng chê của câu chuyện là Trương Quân Thụy, mà thực ra chính là tác giả Nguyên Chẩn, đã quay gót và bỏ rơi nàng, để kết hôn với một người con gái nhà giầu khác. Ðây là cái phần gọi là “sám hối” cho cái “điên cuồng tuổi trẻ” của ông ta. Ðiều tệ nhất là đã làm tình với người ta rồi lại lên mặt giảng đạo đức về chuyện ấy. Truyện được viết trong một sự hối hận, nhưng anh ước mong rằng ông ta đừng giảng đạo đức để bào chữa cho chính mình.

– Nhưng anh có tán đồng hành động của Oanh Oanh không?

– Anh không chấp nhận và cũng không chống đối. Nói đúng ra, anh không phán xét cô ta. Nàng còn trẻ, trưởng thành, sẵn sàng cho tình yêu. Tại vì nàng và bà mẹ goá vào núi ở, nên nàng không có cơ hội gặp được một thanh niên đại lượng. Trương Quân Thụy tới và trái tim của người con gái trẻ đáp ứng ngay. Nàng dâng hiến cho chàng hoàn toàn. Cứ coi đó là đam mê, hoàn toàn vì dục tình. Nàng còn trẻ, rất trẻ – anh nghĩ rằng nàng mười chín tuổi. Chúng ta là gì mà dám phán xét nàng?

Trong một cơn bốc đồng, nàng kể cho chàng về sự gặp gỡ Phùng Nam Ðạt. Nàng thành thực không tưởng tượng được. Chàng chăm chú nghe. Nhưng khi tiếp tục kể, nàng bỗng quyết định thay đổi và tô điểm cho câu chuyện, cốt để thử nghiệm chàng. Nàng không kể về người vợ của Phùng Nam Ðạt và không còn sự kiềm chế nữa. “Em thành thực không muốn, nhưng em đã làm. Và anh chàng thật là tuyệt vời và dịu dàng. Sau đó em cảm thấy kinh hoảng, nhưng vào lúc ấy em không biết em đang làm gì.”

Mặt chàng không để lộ một chút cảm xúc nào và chỉ nói, “Anh cũng đã một thời trẻ trung. Anh cũng làm một số việc điên rồ.”

– Anh có tha thứ cho em không?

Chàng cúi xuống hôn nàng. “Không có gì để tha thứ cả. Anh biết rằng em quá đam mê cuồng nhiệt. Em là một báu vật dịu dàng nhất, tuyệt diệu nhất trong đời anh, độc nhất, độc nhất, độc nhất. Nếu em lấy đi tình yêu này ở anh, anh – anh không nghĩ anh có thể chịu đựng được.”

– Anh không thay đổi quan niệm của anh về em sau chuyện em kể cho anh?

– Không, anh không thay đổi. Anh không thể, dù em làm bất cứ cái gì… Anh thấy anh cần em quá nhiều, anh cũng cần phải mạnh mẽ nữa. Anh không cho phép anh chống lại bất cứ cái gì.

– Chống lại cái gì? Chống lại em?

– Chống tuổi trẻ của em, cái bản chất nổi hứng thất thường của em. Tuổi trẻ cần phải có tình cảm lãng mạn. Em biết tại sao anh không ngạc nhiên khi em kể cho anh nghe về người võ sĩ của em.

Nàng cảm thấy một sự hối thúc phải kể cho chàng biết sự thực, rằng nàng thực tình chưa ngủ với Phùng Nam Ðạt, nhưng rồi quyết định cứ để nguyên thế. Nàng nói, “Em không hiểu anh. Anh quá tốt với em.” Nàng tựa hẳn người lên cánh tay chàng.

– Em không hiểu anh, và anh cũng không hiểu. Ðó là một tình yêu chi muốn cho và cho mãi, để thấy em được hạnh phúc. Anh sẽ sung sướng nếu biết rằng em sung sướng… Em có thể hiểu được thế không?

Nàng ngọt ngào trả lời, “Em hiểu được.”

Ðến chiều, khi hai người trở về, Hải Ðường vẻ mặt mệt mỏi, cho biết có một lá thư của Nghi thân vương tại Hàng Châu. Nàng chưa đọc lá thư ấy và còn nằm trên bàn giấy của chàng. Một người đưa thư từ dinh của Ðoàn thân vương mang tới. Dĩ nhiên nàng đã thưởng rất hậu cho người đưa thư bằng hai mươi quan tiền. Mạnh Giao vui mừng ngạc nhiên thấy nàng đã biết phong cách và tập quán của Bắc Kinh. Nàng nói thêm còn có một người từ Dương Châu muốn yết kiến chàng, một người ăn mặc sang trọng, để ria mép, và ăn nói giống như một thày đồ nhà quê, chuyên sống bằng nghề giao tế thuê cho người khác. Người đó tỏ ra rất thất vọng và hoảng hốt khi được biết quan hàn lâm đi vắng cả ngày. Người đó hẹn ngày mai sẽ trở lại và dường như có việc quan trọng.

Mạnh Giao nhìn vào tấm danh thiếp. Ðó là danh thiếp của Dương Thuận Lý, thương gia muối triệu phú của Dương Châu mới bị bắt. Chàng hiểu ngay và chắc chắn rằng người này do họ Dương phái tới làm đại diện để lo dàn xếp. Làm thế nào họ Dương và những người khác biết được bằng chứng ở trong tay Mẫu Ðơn? Có lẽ người thư ký của Xếp Thuyết đã ngó vào cuốn nhật ký trước khi gửi đi. Người thư ký này chắc đã bảo cho người chú là Xếp Thuyết khi nội vụ bị đổ bể.

Mạnh Giao lập tức ra lệnh cho người gác cổng từ chối không tiếp người khách ấy bằng câu nói cương quyết “Chủ nhân không có nhà.”

Người gác cổng hỏi, “Nếu ông ta cứ chờ thì sao?”

– Cứ nói không có nhà. Ta không có mặt tại Bắc Kinh – nói bất cứ cái gì. Ông ta sẽ hiểu.

Mạnh Giao tức giận. Quay lại hai chị em, chàng nói, “Anh đánh cuộc với các em người đó đem tới một món hối lộ lớn. Anh biết loại ngưòi này. Những người biết chữ nghĩa theo phò bất cứ ai, lo lắng không tìm được sinh kế, nên tìm đường làm giầu bằng những vụ kiện hoặc móc nối và mua bán ảnh hưởng. Họ nói ngôn ngữ của Ðức Khổng, với một vẻ khiêm tốn có văn hoá, và biết tất cả những cách cười xã giao, cách đằng hắng, và kính trọng người đối thoại. Họ chỉ làm phí thì giờ của ngưòi khác. Một gái điếm hạng sang một đêm kiếm được một trăm quan. Một tay biết dùng chữ nghĩa và lịch sự có thể kiếm một ngàn quan. Cả hai đều là điếm – có cái gì khác đâu?”

Hải Ðường lo âu khép chặt chiếc áo ngoài. Bỗng nhiên Mẫu Ðơn nhận thấy em gái có vẻ hốc hác tiều tụy. Nàng liền hỏi:

– Em bịnh hả? Em có vẻ mệt mỏi.

Hải Ðường cho biết nàng bình thường, nhưng mắt nàng lờ đờ và thiếu hẳn cái vẻ lộng lẫy bình thường. Nàng là người rất giỏi che giấu cảm giác riêng.

Sau đó là một bầu không khí vui tươi giả tạo khi mọi người nói chuyện vặt. Những câu chuyện rời rạc, tầm phào và sen kẽ là những lúc im lặng vụng về. Nhưng bữa uống trà trong thư phòng đã lấy lại được đôi chút thân mật dễ chịu.

Mạnh Giao bóc lá thư của Nghi thân vương. Không có gì quan trọng – và vấn đề của Mẫu Ðơn chưa tới quan Tổng đốc, nhưng ông ta hứa sẽ lo liệu khi tới chuyện, Mạnh Giao và cô em họ không cần phải lo lắng. Rồi chàng đọc bản thông cáo bốn trang của triều đình. Theo thông cáo này thì giám đốc Sở Thuế Muối và hai thương gia muối tại Dương Châu đã bị bắt. Nội vụ sẽ chuyển tới quan Tổng Ðốc, và quan Tổng Ðốc ra lệnh phải làm một bản báo cáo thật đầy đủ. Mạnh Giao biết ngay bản thông cáo này đến từ văn phòng Tổng Ðốc. Ý nghĩa của thông cáo này là Ðại Lý Viện đã quyết tâm điều tra và không chấp nhận một sự điều đình nào trước vụ xử án. Vì có liên hệ tới vụ án, Mạnh Giao cho biết sẽ đến thăm quan ngự sử Lưu để biết thêm.

Mẫu Ðơn hỏi, “Anh có chắc là em sẽ không bị dính líu không?”

– Anh chắc như vậy. Ðể mặc anh lo liệu. Ngay cả khi công tố viên muốn có thêm chi tiết ở em, em có thể nói một cách lương thiện là chồng em không bao giờ bàn luận với em về vụ này – và em không biết gì cả.

*

Phùng Nam Ðạt hoàn toàn biến mất. Chàng không tới quán rượu. Mẫu Ðơn tới Thiên Kiều vài lần nhưng không thấy chàng. Một lần nàng lấy hết can đảm hỏi thăm những võ sĩ khác, nhưng họ làm như không biết gì. Nàng lo lắng không biết chuyện gì đã xảy ra cho chàng. Có phải vợ chàng hung dữ đến nỗi nhốt chàng lại, hoặc bắt chàng phải xa lánh nàng?

Giống như một kẻ tội phạm trở lại phạm trường, nàng trở lại khách sạn và lảng vảng tại đó, hy vọng và tưởng tượng Phùng Nam Ðạt sẽ xuất hiện và đi vào bóng tối của lối vào khách sạn. Nếu chàng xuất hiện với một cô gái khác, nàng sẽ chạy vào quầy bán trái cây đối diện và tránh không cho chàng nhìn thấy. Mắt nàng dính chặt vào cái khung ánh sáng hình chữ nhật tại cái cột trước cửa, trên đó treo một tấm bảng với hàng chữ đỏ rẻ tiền: “Liên Thành Khách Sạn”, một cái tên hiệu thô tục. Những quán trọ thương mại không thể không nghĩ tới hai đề tài căn bản của du khách: thứ nhất, sự tìm kiếm một mỏ vàng, và thứ hai, niềm hy vọng liên tục thăng quan tiến chức.

Cảm giác ngây ngất trở lại với nàng khi khoác tay chàng trên đại lộ Trường An, sánh đôi với những bước chân trẻ trung nghênh ngang của chàng. Cơn mơ mộng ngọt ngào chiếm tâm trí nàng vài phút. Rồi mắt nàng mở to khi trông thấy một khuôn mặt lạ, có thể là khuôn mặt người thư ký khách sạn, nhô ra từ cái vùng ánh sáng lờ mờ bên dưới tấm bảng hiệu. Nàng hoảng sợ, quay gót và bỏ chạy.

Ngày một nóng thêm. Nàng không quá quan tâm tới chàng lắm, nhưng câu hỏi cái gì xảy ra cho chàng cứ hiện lên tâm trí nàng. Ñt lâu sau nàng khám phá ra một nơi giải trí nữa tại Thập Tự Hải, ngay sau Tử Cấm Thành. Nàng tới đó một phần vì buồn chán, một phần vì ý muốn tìm kiếm Phùng Nam Ðạt.

Thập Tự Hải là một vùng có những cánh đồng trồng ngô và nhiều ao sen dưới những rặng liễu già um tùm. Cái tên chứng tỏ rằng một thời ở đây có mười ngôi chùa bên một cái hồ, nhưng bây giờ chỉ còn lại một ngôi đền nhỏ, khiêm tốn, bằng gạch đỏ có hai vòng tròn làm cửa sổ. Những hồ nước ở đây nối liền với Bắc Hải bên trong Tử Cấm Thành qua một cái cổng thủy lợi. Trí tưởng tượng của người ta cho rằng hương thơm ở đây đến từ son phấn và nước hoa của các cung phi bên trong Cung Ðiện; nhưng thực ra chỉ là làn gió thổi qua, đem lại hương thơm ngọt ngào của hoa sen. Tại đây có những lối đi liễu phủ kín, một nơi thanh niên nam nữ tụ họp để nghỉ ngơi một buổi trưa mùa hè. Cây cối um tùm và vùng nước trong xanh đã làm khu vực nổi tiếng về mùa hạ. Khắp nơi vang lên tiếng ly chén của những người bán nước giải khát. Một số người làm trò vui đã chuyển tới đây từ Thiên Kiều, vì vào mùa hạ Thiên Kiều rất nóng bức. Về ban đêm, nơi này sáng rực với đèn cầy, đèn lồng bằng tre, và những cây đèn dầu lớn, phản chiếu trên mặt nước. Người ta không cần phải về nhà để ăn tối, vì chỗ này đầy những người bán mì, thịt nguội, bánh bao, và hàng chục những món ăn đặc biệt khác, suốt buổi chiều và buổi tối cho đến nửa đêm.

Nhưng bóng dáng của Phùng Nam Ðạt vẫn mịt mù xa vắng.

*

Hải Ðường nhận thấy cuộc đời của người chị đã thay đổi nhiều. Trong khoảng một tháng, Mẫu Ðơn đôi khi ra đi lúc mười một giờ sáng. Nàng thường trở về rất trễ để ăn trưa. Nàng lại ra đi vào lúc năm giờ chiều, sau khi ngồi cả nửa giờ nhổ lông mày và soi gương chải tóc. Nàng ra đi và trở về như một cơn lốc. Nếu Mạnh Giao có mặt, nàng sẽ quẳng áo chẽn lên một lưng ghế và cảm thấy có bổn phận phải săn sóc chàng khoảng một giờ mỗi ngày. Nhưng chắc chắn thiếu trái tim nàng trong việc này. Mạnh Giao cảm thấy không còn sự ấm áp trong đôi mắt nàng, nhưng không nói gì.

Một tối Hải Ðường hỏi nàng, “Chị có biết chị đã làm gì cho đại ca không?”

Mẫu Ðơn chỉ bĩu môi và không trả lời.

Người ta biết ngay khi sự nồng nàn của người tình đã nguội lạnh. Ðó là sự lạnh lùng trong đôi mắt và âm điệu của giọng nói, trong sự thiếu vắng của tình cảm ấm áp và ước muốn được gần nhau. Bây giờ khi Mạnh Giao về nhà không còn thấy cái tia sáng rực rỡ ánh lên trong mắt nàng. Một hôm, lúc chàng ngồi ở bàn ăn chờ nàng ra, chàng hỏi Hải Ðường, “Chị em đâu?”

– Ði đâu đó. Em không biết.

– Chị có như thế như hồi ở nhà không?

– Có, đôi khi.

Hải Ðường im lặng, ngầm ý rằng nàng không muốn nói về chuyện này. Nàng lo lắng nhìn bộ mặt điềm tĩnh của chàng. Không một dấu vết nhỏ của xúc động hay bực mình. Nàng nghĩ bụng, “Hừ, đó là chuyện của chị. Chị có thể nói thẳng với anh ấy nếu chị muốn.” Nhưng nàng không thể hiểu rõ cái gì đang ở trong tâm trí chàng.

Người em gái trông thấy mọi thứ. Mối tình thoáng qua của người chị với Mạnh Giao không làm nàng ngạc nhiên, cũng như tâm tính thất thường gần đây. Nàng bình tĩnh đánh giá những gì nàng thấy, và giữ im lặng. Một lần bà Ðại Học sĩ Trương Chi Ðông muốn làm mai cho nàng, nhưng nàng từ chối. Nàng cũng biết không hy vọng lấy được người anh họ. Mối tình này được kín đáo chôn vùi trong lòng nàng, tạo ra một quyết tâm mạnh mẽ cho hướng đi của đời nàng, như một bánh lái cho một con thuyền, để cho sự chèo thuyền dễ dàng hơn. Ngoài ra, Mạnh Giao không có gì đáng trách theo ý nàng. Mạnh Giao đã nói với nàng nhiều điều mà không nói với Mẫu Ðơn. Ngay cả trong cuộc đàm luận về thơ tình của Nhã Lan, hai người đã đạt tới mức thông cảm, tránh được sự xâm nhập sai trái của tình cảm cá nhân. Nàng nghĩ mọi thứ về chàng là hoàn hảo, kể cả mớ tóc bạc bên thái dương; nàng biết trái tim nàng hồi hộp mỗi khi chàng về nhà, tôn kính chàng như một học giả, vì kiến thức rộng rãi, tư tưởng xuất chúng, và dáng điệu lịch sự cổ điển của chàng. Nàng thực tình sung sướng thích hợp với cái địa vị thoải mái của một đệ tử thực tâm thán phục, tình cờ là em họ của chàng, học hỏi được nhiều điều từ bàn ăn điểm tâm, nơi hai người thường gặp nhau, trước khi Mẫu Ðơn thức dậy.

*

Một hôm Mẫu Ðơn trở lại quán rượu tại Ðông Ðàn Bạch Lầu. Người đàn bà thu tiền tại đó trông thấy nàng, bước lại và nói, “Này cô nương, đã lâu lắm không thấy cô lại. Chúng tôi tưởng cô đã rời thành phố rồi.”

Nàng trả lời, “Không, tại sao tôi bỏ đi chứ?” Nàng nghĩ câu hỏi của người đàn bà thực lạ lùng. Một nụ cười buồn trên môi nàng. Nàng mở miệng rồi lại im lặng, nhưng ngưòi đàn bà đã đọc được tâm trí nàng.

Bà ta nói, “Lại đây,” và thì thầm cái gì vào tai nàng.

Mẫu Ðơn há hốc miệng ngạc nhiên, như thể thời gian bỗng dừng lại. Nàng kinh hoàng đưa tay lên che miệng, một cảm giác giống với xúc động và ân hận, vì cái gì xảy ra hiện rõ trong trí nàng – cái hậu quả đáng sợ của một hành động cẩu thả. Phùng Nam Ðạt đã bị bắt giam vì tội giết vợ, và gia đình nhà vợ kiện chàng. Không ai biết cái gì đã xảy ra trong căn phòng tối tăm ấy. Có thể vì bà vợ bị tay ngưòi võ sĩ mạnh mẽ hất quá mạnh, đã va đầu vào một vật gì cứng rắn, có lẽ là cột giường bằng sắt. Bây giờ chàng bị buộc tội giết người.

Người đàn bà đã cho Mẫu Ðơn biết tin ấy, nhấn mạnh rằng bà ta không còn biết gì hơn nữa, và không muốn dính dáng vào chuyện riêng giữa hai người. Từ khoé mắt, bà ta thấy Mẫu Ðơn rũ người xuống ghế, mắt vẫn mở to kinh ngạc. Rồi Mẫu Ðơn lạnh lùng đứng lên, đẩy ghế ra sau, và lười biếng lê chân bước ra ngoài đường phố.

Dĩ nhiên nàng không thể giúp gì cho chàng được; nàng cần phải tránh xa cái vụ rắc rối này.

Trong những ngày kế tiếp, nàng tôi luyện trái tim mình để nghĩ rằng, trước hết đây chỉ là một tai nạn, sau nữa là Phùng Nam Ðạt đã kể cho nàng nghe về vụ đánh lộn giữa vợ chồng chàng trước khi gặp nàng; thứ ba là, nàng vẫn chưa hề ngủ với chàng, mặc dù việc ấy đã có thể xảy ra. Nhưng dù đã cố gắng, nàng vẫn cảm thấy có tội. Nàng thường thức giấc nửa đêm với một cảm giác run rẩy, như thể chính nàng đã đóng góp vào sự đổ vỡ của một gia đình. Rồi đầu óc nàng tỉnh táo, và tự trấn an rằng nàng không đáng trách trong vụ này.

*

Mạnh Giao gần đây rất bận rộn sửa soạn cho buổi lễ chào mừng việc hoàn thành con đường xe lửa Bắc Kinh – Sơn Hải Quan. Chàng cảm thấy sự thờ ơ của Mẫu Ðơn trong khi nàng cố gắng che giấu sự lạnh lùng ấy; chàng có cái cảm giác lo ngại của người đang đi trên một tảng băng sắp chìm xuống, bên trên băng đá vẫn còn nguyên nhưng bên dưới đã có những vết rạn nứt. Mắt chàng vẫn sáng rỡ mỗi khi trông thấy nàng đi chơi về, nhưng sự hưởng ứng của nàng thì miễn cưỡng và giả tạo. Trên người nàng bao trùm một cái nhìn che giấu, cái nhìn của một tình bạn thương hại, giống như mặt nước ao tù phẳng lặng và nặng nề, thiếu hẳn tiếng sủi bọt dồn dập của một con suối.

Khi chàng hiểu rõ nàng trong những lúc nàng không đề phòng, thì tình yêu nồng nhiệt của chàng đối với người em họ xinh đẹp gây đau khổ này lại tăng thêm, thay vì giảm đi; nhưng tình yêu ấy cũng trở thành bề ngoài. Ðối với chàng, nàng vẫn đáng yêu như bao giờ, nhưng nàng bắt đầu làm chàng lo lắng. Chàng biết rằng nàng đang đi trên mây, sống thuần bằng cảm xúc và trí tưởng tượng, tìm kiếm một người tình trẻ lý tưởng, đòi hỏi một thứ ảo tưởng vàng son không thể có được. Chàng nhớ lại mới chỉ một năm trước, nàng khát khao chàng mãnh liệt như thế. Bây giờ chàng rõ ràng trông thấy nàng cũng có một nỗi thèm khát sinh tử như thế cho một người khác. Chàng cảm thấy tê liệt, như nhìn một người mộng du đang bước tới bờ vực thẳm. Tất cả những gì chàng có thể làm là đứng bên cạnh, sẵn sàng đưa tay giúp đỡ nếu có bao giờ nàng cần đến chàng. Ðiều an ủi là nàng không cố tâm lừa dối chàng.

Hải Ðường không thể hiểu được chuyện này. Lòng trung thành tuyệt đối với chị làm nàng có khuynh hướng che giấu những gì nàng biết về Mẫu Ðơn. Nàng biết nhiều lắm – những lời nói ngắn ngủi bật ra miệng Mẫu Ðơn trong những lúc bất ngờ, cái vẻ che giấu trong bữa ăn tối, những cái ngáp lén lút khi có mặt chàng, việc thường đi chơi một mình, sự thẳng thắn của nàng, kể cả những thứ làm một người con gái bình thường phải đỏ mặt. Những việc này tạo thành một thái độ đáng suy nghĩ giữa nàng và Mạnh Giao, một phần là nàng muốn bảo vệ người chị, dẫu sao cũng là người giúp nàng được đi Bắc Kinh; nàng muốn ở đây lâu và không bị trục trặc gián đoạn, hơn nữa đây là những chuyện một người con gái chưa chồng không nên nói với một người đàn ông. Về phần Mạnh Giao, tình cảm thân mật của chàng đối với Mẫu Ðơn thì quá riêng tư không thể bàn cãi với một người khác, dù là em gái của nàng, và chàng quá kiêu hãnh không muốn dò hỏi về người đàn bà chàng yêu. Thế là một tấm màn đã bao trùm những thay đổi quan trọng nhất trong cái gia đình này.

Rồi trong khi tìm hiểu Mẫu Ðơn, Mạnh Giao nghĩ về nàng như một người trẻ tuổi nẩy nở trong tình yêu, bị nhuộm bởi tình yêu, như là sự e thẹn đầu tiên của mặt trời buổi sáng nhuộm mọi cánh hoa mong manh nhất của một bông hồng nở. Nàng hoàn toàn chín mùi vào tuổi hai mươi hai trong khi nhiều phụ nữ chưa hiểu biết vào tuổi ba mươi. Nhưng tình yêu của nàng cũng mang dấu vết của sự không trưởng thành, vì sự tàn bạo tuyệt đối của tuổi trẻ; nàng không hiểu sự tao nhã của người có kinh nghiệm, biết hưởng thụ thẩm mỹ hơn về tình dục. Nàng có thể làm tình ngay mà không cần phải có giai đoạn vuốt ve trước. Giống như uống nuốt trọn một ly rượu bằng một lần uống, thay vì nhấp từng ngụm chậm chạp. Chàng lấy làm lạ nàng không đáp ứng vài lần chàng đề nghị vào thăm Ðiện Thái Hoà khi nàng mới tới đây; mãi về sau nàng mới đồng ý khi chàng thúc giục bằng một ý tưởng bật nhớ, “À, phải, em phải đi thăm Cung Ðiện.” Nàng thích tìm thú vui tại Thiên Kiều hơn. Tuy nhiên bây giờ nàng quá thân thiết với chàng đến nỗi bất cứ nàng làm việc gì, chàng cũng cố nhìn sự việc ấy bằng nhãn quan của nàng; chàng không muốn nàng phải khác đI.

Một buổi tối, nàng đi chơi về vào lúc mười giờ. Nàng sắp bước vào cánh cửa dẫn vào phòng riêng thì trông thấy ánh sáng trong thư phòng. Nàng bước vào theo thói quen để nói chuyện. Nàng vẫn săn sóc chàng một cách thân mật. Mắt hai người nhìn nhau một lúc im lặng. Rồi chàng mỉm cười và nói:

– Em đi chơi có vui không?

– Vui lắm.

Nàng bước lại và ngồi cạnh ghế trường kỷ và hỏi, “Tại sao anh làm việc vất vả quá vậy? Tại sao không nghỉ ngơi đI?”

– Anh bao giờ cũng tìm việc gì để làm khi anh cô đơn.

– Em xin lỗi.

Nàng nói với một nửa cảm giác tội lỗi vì đã bỏ chàng một mình. Một sự im lặng vụng về xen vào. Chàng làm một cử chỉ muốn hôn nàng, nhưng nàng lắc đầu. Nàng đứng dậy, cởi áo chẽn ra, và nằm cuộn tròn trên ghế trường kỷ, theo thói quen của nàng. Chàng dừng lại một giây, rồi nhìn nàng rất âu yếm và hỏi:

– Em không muốn hôn anh bây giờ hả?

– Không. Anh không phiền chứ?

Chàng trả lời một cách miễn cưỡng, “Anh không phiền. Thôi đi ngủ đI.”

– Hãy chúc em ngủ ngon đI.

– Anh chúc em ngủ ngon.

Nàng bước ra bằng cửa sau của thư phòng, bỏ quên chiếc áo chẽn như thường lệ. Rồi nàng nhớ lại, mỉm cười quay lại, gắn một chiếc hôn vội vàng lên trán chàng.

Chàng nhìn nàng biến mất sau cánh cửa, tóc xõa xuống vai, như một bóng ma hư ảo của một sắc đẹp bi thảm. Nàng làm chàng bực mình và đồng thời làm chàng nổi giận. Trái tim chàng chìm xuống với một nỗi chán chường cô đơn không cùng.

Cái làm Mạnh Giao đau nhất là chàng đã tìm ra cách hai người có thể kết hôn với nhau được, nếu nàng còn yêu chàng. C