… “Không cánh mà tôi bay như chim.” Không cứ là người của văn chương, tôi vẫn có thể viết nên câu chữ bình thường, nhưng rất thật như vậy, để diễn tả tâm trạng của tôi lúc này.
Tôi đang mơ. Giấc mơ không lấy mất của tôi chút nhỏ nhoi ý thức nào. Tôi đang bay. Tôi nhìn thấy cây cối người xe lùi sau hai bên. Tôi nghe được tiếng gió ào ào quen thuộc mỗi khi dông tới. Tôi nghe con tim tôi dồn dập. Nó đang hát. Lời hát phả qua hồn tôi, vọng lên não bộ. Cả trí và tâm trong tôi cùng nở bừng. Hạnh phúc. Đó phải là Hạnh-Phúc. Không lầm được. Thái độ ấy, cử chỉ ấy, ngôn ngữ ấy, tiếp xúc ấy; tất cả hợp lại làm nên Hạnh-Phúc. Với con người, hạnh phúc chót vót là khi đang yêu và nhận ra người kia có cùng cảm giác đó, như mình, “you feel that way, too”. Chao ôi, có cảm giác nào dào dạt như cảm giác con tim mình đang đập không phải cho chính mình, gọi tên ai đó không phải tên mình? Có nỗi niềm nào ghen tuông tự kỷ vị tha như khi yêu? Bầu trời này chưa đủ cho hai người. Tán dù này quá dư dả cho hai người. Nói sao cũng ra chân lý. Tình yêu biến con người thành triết gia, thành hiền nhân.
Khắp nơi, trên kia, mây như một thảm ruột dưa hấu. Các hột đen, nhuộm chiều, đã trở thành tim tím là những bọt khí mà ánh dương chỉ xuyên qua nửa. Mặt trời như lòng đỏ trứng khổng lồ treo bằng một sợi dây tiệp màu với da trời. Các cột điện bắt ráng hoàng hôn, màu gỗ cũng tươi hơn. Chung quanh nơi chúng tôi đứng, chim lác đác gọi nhau về.
Chỉ vài phút sau, mây được trả lại một phần màu vốn có. Vầng ô đã ngủ. Bóng điệp xanh chung quanh các ngôi nhà đậm hơn, nặng hơn. Chim về đông hơn. Một chú, trước khi chui vào tổ, còn luyến tiếc một ngày làm việc vui vẻ cùng lũ bạn, nhảy lóc cóc vài bước, uống thêm ngụm nước mưa đọng trên đường, rồi mới chịu vù lên. Hơi trời dịu hẳn. Mát lạnh. Giống như đang úp mặt vào chiếc khăn ướt.
Chiều rớt mau. Bến phà qua sông cái đã kéo lên bửng đóng. Mặt nước giàu phù sa hết còn nhận phản chiếu từ trên.
Tôi đang vân du trên bầu trời quê tôi. Tôi muốn nói với tất cả, từ cây cối, đến những con người dưới kia là tôi đang trở về, đang thực sự hạnh phúc quay về, đã thực hiện được giấc mơ thần tiên của hàng triệu con dân xa xứ.
Tôi dùng cả hai bàn tay ấp lên bàn tay của Huyên. Tôi thèm khóc.
… Mình đã làm được điều mình muốn. Sự yên lặng đầy thông cảm của anh đã cho mình đủ can đảm để mở toang quãng đời ê chề nhất. Tự cảm thấy nhơ nhớp bao nhiêu trước khi kể thì, khi kết thúc, mình tự thấy sạch sẽ bấy nhiêu. Từng câu chữ của mình ví như những giọt mưa cào gội bụi bặm trên cơ thể. Mình đã được trắng án. Vết bầm tím trong lương tâm và thể xác của mình vừa được anh xoa rửa. Anh nói:
“Trong chiến tranh, sau chiến tranh, mỗi giai đoạn đều phát sinh những tình thế, những nạn nhân thích ứng. Giai đoạn mới mà một nhóm người xuýt xoa là ‘hòa bình’ lại đặc biệt sản sinh những hoàn cảnh thương tâm quá mức! Bao kiếp số bị biến dạng, bị tước đoạt chỉ vì thứ hòa bình quái đản kia? Con người buộc phải dấn vào một cuộc đấu tranh mới, phiêu lưu mới, dùng phương tiện thô sơ và sức lực bé bỏng để chống chọi với thiên nhiên, với đồng loại, giằng co cùng rủi may, bởi trong đó còn hy vọng tìm thấy lẽ sống; nếu nằm xuống thì ít ra cũng an lòng vì đã tận tâm tận lực vì mình, vì những người thân yêu.”
“ Nhiều khi em xót xa quá! Lý thuyết đành rằng là vậy. Nhưng va chạm với thực tế hàng ngày, cái thuyết lý tốt đẹp kia ngẫm ra không hơn gì lời an ủi cay đắng, mỉa mai. Tại sao một số người trong tập thể gọi là đi tìm an bình kia chỉ muốn chiến tranh, chỉ muốn gây hấn, lùa phần đổ vỡ, thua thiệt về phía người khác? Phải chăng trong chiến tranh – hình thức chiến tranh mới – họ mới thi thố được sở trường lợi dụng, vùi dập của họ?”
“Họ chỉ là nạn nhân của một hiện trạng mới. Tình thế mới sau chiến tranh này lại thách đố, đòi hỏi các cá nhân những đức tính kiên cường hơn để tự định nghĩa mình như một cá thể mà phần ‘nửa thần’ phải vượt trội hơn phần ‘nửa thú’. Tiêu chuẩn ấy phân xếp thành hai loại người tách bạch.”
… Anh ấy không thích biển. Biển, với anh ấy, còn ‘nợ’ anh câu trả lời. Biển đã giữ phần ‘hồn’ của anh, chưa chịu trả lại. Anh sống, kiên nhẫn chờ, từng ngày. Với biển, thái độ của anh là ‘…vừa sợ vừa kính… nhi viễn chi’. Mình chỉ hiểu anh tới mức đó, và chỉ đoán vậy thôi.
Anh không miễn cưỡng hay phản đối khi được mình đưa đến thăm vùng biển này. Mình đoán sai, bởi đánh giá quá thấp lòng độ lượng trong anh. Không thích, nhưng tôn trọng sở thích của người. Điểm son nơi anh mà mình cứ muốn tô đậm hoài.
… Cùng căn phòng ấy (ôi, quả cuộc đời nhiều sự trùng lắp lạ kỳ!) mình đã chào thua vĩnh biệt thời con gái vì một kẻ mình không yêu. Anh ta đã cưu mang, bảo bọc cho mình suốt thời gian từ khi xuống tàu, nơi trại tị nạn, và lúc đã đặt chân lên được bến tự do. Hắn khôn khéo che đậy âm mưu chiếm đoạt mình. Tính toán chi li từng bước. Bao nhiêu ngày, rồi bao nhiêu tháng? Trong căn phòng đó, anh ta đã nói yêu mình, muốn cùng mình chung tay xây ngôi nhà hạnh phúc. Chưa bao giờ mình thấy ai thiểu não thê thiết si mê (sao lạ? tình yêu hèn đớn vậy sao, biến người đang yêu thành oặt òa vậy sao?) và đáng thương đến mức! Mình thì đang cần một đôi tay rắn rỏi dìu dắt. Cử chỉ ‘tỏ tình’ của anh ta cho mình kết luận ngược lại. Mà mình còn cần gì? Mà cần, ngẫm có đòi được ngay? Cả gia đình mình đã tan tác trong cái ‘thiên đường hạ giới’ cuồng loạn vương máu lên cả trăng sao. Người chết; kẻ sống mà cứ cầu mong được chết. Mình chạy trốn. Đó như bản năng hơn là suy tính, kiểu vô thức cộng thể hơn là ý thức cá nhân. Sống được không, và sống thế nào, trong giai đoạn nhục nhằn kia của dân tộc? Dầu sao, mình cũng đi, và may mắn hơn bao nhiêu người khác, đã đến. Cây đã bị bứng rễ, cuộc sống còn ý vị gì? Đi với anh ta hay ai kia, liệu có hệ trọng? Dù hèn yếu, nhưng ít ra, anh ta cũng còn là con người chứ? Sự tận tụy, chăm sóc, chiều chuộng mình trong quãng thời gian chông gai nhất của kiếp tha hương phải xuất từ mầm lương thiện đích thị trong con người của anh ta chứ? Mình đã cho. Trong trí óc trẻ dại của một cô học trò tỉnh lỵ, làm điều ấy, mình sẽ nhận được cái đáp trả – đó cũng là theo lời hứa của anh ta. Và nó hợp lý, phải chăng. Không tình yêu thì chỉ còn trao đổi.
Nhưng, cuộc chiến vẫn theo sang tận đây. Gian trá vẫn chưa trả hết lại bờ bên kia. Anh ta biến mất, thật lạ thường, sau một đêm, cứ như oan như khiên, như bóng như vía, như chưa từng xuất hiện trên đời, sau khi “trân quý nụ tinh khôi” (cái ngôn ngữ tán tỉnh lừa bịp!). Mình quay cuồng, chới với, hụt hơi buổi mai lạnh buốt thức giấc, nhìn cặp gối gối chồng lên nhau trong này, khi bên ngoài, qua khung cửa sổ, chiếc xe cót két của anh ta cũng theo chủ, thành oan thành khiên, thành ma thành mị, tan ra khói, nơi bãi đậu. Cái vốn liếng tốt đẹp nhất, nhưng chưa ý thức làm chủ, đã bị chiếm đoạt bằng vuốt ve nỉ non giả trá. Cái cần thứ đến là một nương tựa, cũng mất. Nếu được mở mắt với cái giá kia thì quả mình đã mua quá đắt! Đó là cái giá tối hậu. Mình trả nó bằng chính sự trinh bạch. Trả xong, mình ‘trắng bóc.’ Lấy gì sẻ góp với đời?
Đời mở tung, đe dọa. Để bước được trên nó, mình đã lao đao, chóng chánh thế nào? Quê nhà chỉ như thân liễu mảnh mai so với vóc dáng vạm vỡ của cây ‘Gỗ Đỏ’ nơi xứ sở mình đang sống! Mấy niên trôi mệt nhoài. Hoa trái chỉ mới nở; nhưng ý hưởng thụ nó tắt hẳn. Vết đau vẫn cắn nhắc sự có mặt của nó, nhất là những đêm khó ngủ. Mình nhớ gia đình, nhớ thành phố cổ kính xinh xắn với hàng me hàng phượng và dòng sông thuyền ghe tấp nập, bãi biển ngắn, nhưng thơ mộng, và mái trường và hồi trống báo giờ và những trái cóc trái xoài dù đã ngâm đường vàng ươm mà vẫn còn chua buốt răng ứ ừ nước miếng đã ấp ủ nuôi dưỡng mình cùng bạn bè suốt 7 năm trung học. Kiến thức góp nhặt xa xưa chưa chín muồi đủ để giúp mình vững chãi trên những dợm chân xuống lòng một xã hội còn mười mươi mới tinh và bí ẩn. Trong cơn hoảng loạn, chưa kịp trưng dụng mối háo hức để làm quen với môi trường lạ, mình đã bị vất vào xó của hoài nghi, cấn dội. Ngàn ngày ngột ngạt. Mỗi ngày sống là trăm lượt lăn trùm vùng vẫy tìm cách chúi vào, và chui khỏi lưới chết. Đến bây giờ, mình cứ co rúm lại khi nghĩ đến buổi sáng ấy, khi hồn uổng tử kia thăng biến. Lạnh khứa da. Ngoại ngữ nghèo nàn, tiền bạc chỉ một nhúm. Kinh hãi đến như phát câm. May, nhờ sự thông minh và kiên trì của anh dọn phòng, tình cảnh của mình đã được anh ta hiểu và thương cảm. Cũng chính anh chàng nước da bánh mật của quê hương đấu bò dễ thương này đã liên lạc nhờ người đưa mình về tận nhà. Hoàn toàn miễn phí! Miễn phí luôn cả những lời an ủi, khuyên nhủ, khích lệ.
Tìm đến nơi người khác muốn bỏ đi như một đòn tự trừng phạt. Thị trấn chỉ có gió cát và sương muối. Thành phố của ‘nắng lửa, mưa dầu’. Lãnh địa lý tưởng cho những ý định quay lưng với đời, tự tiêu hao, bào mòn. Thuê phòng. Học. Và học. Vừa làm. Vừa học. Ăn, ngủ, đến sở, đến trường, về nhà, ngủ… 30 phút lái xe để đến công ty; 40 phút để đến giảng đường, và 10 phút băng qua chiếc cầu nhỏ để đặt chân vào và tiêu hết phần ngày còn lại trong thư viện (tạ ơn đời là vẫn còn những nơi để giết thời gian một cách lành mạnh như vậy). Cuộc sống sau cái ngày bị nguyền rủa đó chỉ là bấy nhiêu. Hoàn toàn không thú vui.
Mình cứ ngỡ bị trói thúc hoài thì, anh đến! Cánh cửa đắn đo, lúng túng bị anh phá tung. Ánh trời gom hết trong anh phút giây anh ngỏ lời làm quen. Lâu lắm rồi, mình đã cố xa lánh tất cả những âm vang, hình ảnh nào có thể khơi lại mối đau thương cũ. Mấy lần rồi mình đã khước từ việc được đề bạt, từ chức vụ (lương bổng cao hơn), đến địa điểm (thuận lợi hơn, gần ánh sáng đô thị hơn)? Bao lâu rồi, mình không còn dịp dùng đến và nghe lại thứ nhạc ngữ báu vật của quê mẹ? Phải cảm ơn anh, bởi, nếu không, ngày nào đó, mình sẽ chỉ là người ‘ngoại quốc nửa mùa’ nói tiếng Việt, hoặc ớn lạnh hơn, như ‘nickname’ mà người ta vẫn gán cho những kẻ ‘bị trốc rễ’ như mình: ‘con chim biết hót, biết bay, nhưng không thể đáp xuống đất’. Thường khi, mình mặc kệ. Nhưng đôi lúc hết sức rợn người khi nghĩ rằng điều ngang trái này rất có thể xảy ra. Nó thăm thẳm và khủng khiếp hơn cả cái huyệt tuyệt vọng mà mình đã bị xô xuống. Thật vậy! Cảm ơn anh đã giải thoát mình khỏi ngõ ngách bế tắc này. Cảm ơn đời đã mang anh đến rẻo đất ‘tận thế’ này. Mình không hề dám mơ lại có người thứ hai cùng nói giống ở đây. Đêm đã tàn. Dầu chưa hết e dè, mình vẫn không thể cưỡng lại sức mời gọi thật kỳ lạ nơi con người đó. Trực giác không báo cho mình điều gì với biến cố tồi tệ trước đây. Nhưng lần này, nó lên tiếng. Nó bảo mình: hãy ló mặt! Nó hối thúc mình, chuông đời đã ngân! Có ngu ngốc lắm mới bịt tai trước tràng âm thanh vi vút lạc quan như vậy. Và mình đã bước ra. Hào sáng. Với nguyên vẹn đam mê và náo nức, ký nhận từ anh tấm vé mời làm chung cuộc lữ hành. Dĩ vãng đã khô vảy. Trơn tru là hiện tại. Hãy trả lời con tim đã. Tình yêu sẽ làm trọn phần tiếp.
* *
Gió từ lũng sâu, gió trên đầu, gió dưới mặt nhựa tróc trơ đá. Gió hụp lặn trên những vát mây mỏng teo. Gió nhùn nhầy trong khí. Mỗi bước tiến, mỗi bước ngừng, mỗi hơi thở đều bị đeo gió. Một số gió đang chuyển thì đã đành; ngay số gió đang ngủ cũng bị vực dậy mà thức mà múa máy theo.
Cô gái nhẹ tênh. Cái cơ thể hơn trăm pounds của cô đã bị gió tháo hết sức nặng. Cô bị nâng lên. Tóc xoãi hai bên tựa như giữa chúng là chiếc miệng gió đang thổi. Các trụ điện mép núi và chùm dây thõng thượi trông như những sợi đàn đã lâu không ai so của chúng thấp chùng, quăn quíu, chun lại, cô đọng tức thời, dệt vừa khuôn chiếc chiếu lớn màu bạc. Những đường dọc của chiếu gấp ngược lên, õng xuống, úp chụp về trước, trườn trượt ra sau, nhanh lắm, nhưng vẫn không thể chạm tới cô. Nó là chiếc nền vừa ảo, vừa tỏ mà trong sững mắt của Huyên, chẳng khác chi luồng thác rộng với lưới nước đổ lên, cao quá, sóng sánh, ngã sõng soài tức tưởi rồi bị hút vào tâm vô đáy. Cô mặc áo bành tô len, màu đỏ rượu. Chiếc áo lụng thụng trống dưới hụt trên chẳng những không bó lại được, còn làm vương vãi cả ra ngoài một lượng gió đáng kể. Thật tiếc! (nếu không, cô hẳn là cô gái được gió bứng bay lên trời như chuyện tranh thiếu nhi nào hồi bé anh đã xem.)
Cội phong già, nói là gần tầm mắt nhất, nhưng cũng phải mỏn hơi mới đi tới được, như vừa bị bứng rễ, mất thăng bằng, rũ rời bị tốc hốt về xa; và chỉ sau vài tiếng đếm, đã nhập một phần vào bóng xanh mờ tít của rặng xám chập chùng, rồi dần dần cụp lá khi khựng phải cái nóng nứt nẻ của sa mạc Cuyaca Springs bủa vây khoảng trống còn lại.
Màn vũ của khí động, giữa lồng hổng không gian, bắt con người ghi nhận bằng cả hai giác quan: mắt, và da: gió, từ khắp hướng, theo hẹn, bằng một hợp điệu cực kỳ chính xác, rập ràng, cùng ẩy dồn nhau gửi theo về những mũi châm cứu. Da thịt mẩn gai, khắp vùng, cũng đồng bộ và nhịp nhàng như thế. 4 góc mùng lớn của bầu trời đang cố khâu cụm lại để khó bị gió bóc rách. Mắt mở to mà như hụt, như không nơi níu vấu, lại ran rát như có rẩy muối theo vào.
Vũ trụ bao la. Nhưng vì thế mà như không hình cốt. Con người thì nhỏ bé, nhưng lại có. Và do thế, là phòng trưng bày mọi sượng sùng rách rưới. Riêng mình, cái ‘có’ chỉ mới đây thôi, cho mình thì ít, mà nhiều hơn là cho một ai đó khác. Người đó đang đứng trước kia. Đẹp nơi bóng dáng. Và đẹp hơn khi được mực vẽ tưởng nghĩ của mình tô điểm, biến cô thành một tấm ảnh vừa cắt ra từ quyển sách hình. Nó đẹp, lặng, và lạnh, và hư cấu tràn trề như bức tượng trên ngọn vọng hải trăm năm cũ, buông tóc theo gió thay tiếng gọi tình về trong câu chuyện chắt lọc từ một xác thịt có hơi thở và có ái dục hẳn hoi.
Huyên mỉm cười, muốn đầu óc hôm nay phải tiết ra hoạt chất lạ hơn bình thường chút, kỳ cục cũng được, và không bền, bởi ngay bây giờ (cùng lúc với ý nghĩ), nó đang bị đánh bạt bằng vài động tác thể dục. Anh muốn vận động, đang cần ấm, và hong sáng, trong đầu. Lâu lắm rồi, anh mới có dịp đối diện, trong tâm trạng sòng phẳng, và hữu hảo, với thiên nhiên.
Gió có khiến mình hoa mắt, nhưng không thể biến âm thanh sàn sạn khô nhám của nó thành tiếng rong róng êm ái cuộn vào nhau của chất lỏng. Không thể lầm: biển đang nấp sau động nhũ nâu bóng bên phải, nhắc nhở anh bằng thủy âm của nó. Chưa chường mặt, nhưng cái tên gọi đã như móng vuốt vấu lay anh, chích vào anh lượng tỉnh táo bất ngờ. Nước: đồng nghĩa với lạnh, và thức. Là cái hầu như anh lãnh cảm với, về mặt nào đó. Nhưng, trong mặc cảm tương tranh, với anh, vị thế thượng phong của biển là điều khôn bề đảo ngược. Dù đắng lòng, anh cũng nên làm bạn với nó. Nó là cái anh cần, để nhận từ đó cái muốn tìm.
* *
Một góc trời bị gặm tưa bởi chỏm tường trái. Phía trước, con dốc lùng nhùng lúng túng dưới tấm áo đi mượn; trông xa hơn nữa, như dấu ngã đứt khúc. Hấp nắng quái, đá chởm dưới đường như đang bật lên từng tia lửa nhỏ.
Lam vén lọn tóc trên trán, giữ quặp đuôi của nó sau vành tai. Cô cần làm giảm áp lực của sự im lặng bắt đầu trĩu nửa dưới ngực, bằng nói, và nhìn sang người bên cạnh:
“Sắp đến rồi. Chỉ còn đoạn cuối này. Anh nghỉ, nhường tay ga cho em?”
Huyên phác một cử chỉ mơ hồ. Lách mũi phạt ngang, khía một đường rạch rắn rỏi lên thảm huyền thạch đơn điệu. Biển phì phò âm sóng lên tai. Gió, là là đất, như chiếc vó cá, ngửa, thổi vù lớp cát trên mặt đường toe thành phễu, rơi, tinh tích lọt qua gót giày. Lam vừa nhột, vừa lạnh, chạy vội vào ngồi sau bánh lái, đóng cửa xe, xoa mạnh đến nóng rát lên hai má. Tai ù òa đến bật tiếng ve kêu. Bên ngoài, Huyên đứng ngó thật lâu xuống lũng cạn của một góc bãi vàng hoe vắng. Biển thập thò sau de núi; biển: cõi khai thị lập lờ. Một thực tế, với chính hiện tại sống của cá nhân anh, vốn khá xa lạ, nhưng khi liên kết nó với những người thân khác, kỷ niệm khác, nó trở nên vừa thêm xa, nhạt, mà lại rất thân thiện. Anh búng mạnh viên cuội trên tay, dõi theo cung bay thật ung dung, và dẹt, và đẹp, chậm quay về khối sắt cô đơn giữa nền trời cùng màu khiến cho nó như bị dán chặt vào. Lam xoáy chốt, cúi, cột lại dây giày, định bước ra. Huyên hươi tay ngăn, vòng về sau; câu nói vừa vặn tai cô khi anh đã sang phần xe bên kia:
“Em thay anh. Bỗng dưng mắt anh mỏi lạ. Và có cả cái buồn ngủ nữa. Trời hình như đang chiều. Ồ, không: đất đang xanh xám vì gió. Cũng có thể tại đôi kính râm vừa mua.” (dụi mắt rõ lâu) “Gió thật! Con lộ như cô xuân nữ đang bị tốc váy. Hấp dẫn hay không thì chưa biết, chỉ biết là khó qua đấy. Em cẩn thận.”
Lam ngoan ngoãn làm theo. Cô vừa muốn cười vì bao nhiêu là câu nói đồng bóng chẳng theo thứ lớp nào của Huyên, vừa sung sướng khi (không mong mà) được chấp nhận, tự thấy như đang lớn thổi lên, quan trọng lên; nhưng tự nhủ: cần tiết chế; và chỉ nên ngân nga thưởng thức nỗi sung sướng ngọt ngào bằng cả mấy phút chỉnh đốn lại thế ngồi, khoảng cách từ ghế tới bàn đạp số, thắng, kính sau, hai kính hông, độ nghiêng của ghế… Mỗi lần vào xe, khi bên cạnh còn có đôi mắt ‘khác’ (chỉ có thể là của Huyên) trông chừng (cô vẫn cho là xét nét, soi mói), Lam lại thấy mái tóc rối lên chút, kẻ môi nhợt hơn chút, viền mi và mày lệch một chút. Và luống cuống lại dôi chút. Đôi tay chẳng biết để đâu. Tự trấn an, và lại tự loay hoay. Cứ thế tự trách móc và cáu kỉnh với mình.
Nhìn nét căng thẳng rất trẻ con của Lam, Huyên mỉm cười. (hình như Lam vừa mở sưởi: chân anh đang ấm dần. “Chiếc xe không mới lắm mà dàn máy êm quá! Mình có thể đánh một giấc trong này lắm”, anh nghĩ.) Đàn bà bao giờ vẫn là đàn bà. Họ làm đẹp cho mình ngắm nghía thì ít, bối rối vì chính mình thì ít, mà cho mọi người, vì một người nào đó, hầu hết. Thế mà khi kẻ khác nhìn vào, họ vừa tíu tít muốn lưu giữ, vừa líu ríu muốn đuổi xô tia mắt của người đi. Cô đó. Đầy đủ, và điển hình phẩm chất của một sinh vật giống cái.
Ngộ cái là, cô đã từng dạy lái cho anh đấy. Cũng nhờ cô mà anh trót lọt kỳ thi lấy bằng. Cô cũng đã tình nguyện làm bạn đồng hành với anh rất lâu sau đó, tuy vẫn phê bình cách điều khiển xe của anh là rất ‘đứng tim.’ Có thể cô đúng (Huyên tự biết phản ứng vẫn còn rất chập choạng, dù đã thoát cuộc khảo hạch). Dù sao tình yêu cũng đã nẩy mầm sau các buổi học. Các vòng quẹo đóng vai các nhát cuốc bổ đất gieo hạt. Huyên nghĩ, cũng hay. Trong ‘nóc nhà di động’, mọi việc hóa ra thoải mái và tự nhiên rất mực. Con người cảm tưởng gần gũi, cần, và thèm gần gũi (tuy đó hầu là một đặc tính của lễ thức sinh hoạt, nhưng thực ra, vẫn khó đạt tới một gần gũi thực sự). Ở đây, lời nói là xa xỉ. Huyên bâng khuâng không nhớ anh đã tỏ tình với Lam thế nào, và cô đáp lại ra sao. Lòng xe chật hẹp giúp hai người dễ vượt qua bức rào ngại ngùng ban đầu để tiếp cận nhau (bởi chẳng lẽ mỗi lúc muốn tránh mặt nhau lại mở cửa bước xuống?). Và chính cái lồng xe nhỏ hẹp kia đã giúp lần hôn đầu bớt gây bối rối cho cả hai.
Dần dần, Lam lấy lại tự nhiên và bình tâm. Cạnh cô, Huyên tựa đầu vào thành ghế, mắt nhắm. Cô khó biết anh đang ngủ hay suy tư. Cô lái thật chậm cho anh đỡ bị xóc. Ngay cả những đoạn đường chợt êm.
* *
Đêm qua, chúng tôi trò chuyện lâu lắm. Ai là người mở đầu, vào lúc nào, bằng câu nói nào, và câu chuyện xoay quanh cái gì, tôi không nhớ (ôi, chỉ tại con tim tôi rối bù quá – rối bù từ lúc anh nhận lời mời – làm rối luôn cả đầu óc!). Chỉ biết đã bước sang ngày mới. Và cái lạnh đã bắt đầu bóp bép tôi như viên bột. Huyên xoắn lọn tóc tôi trong ngón tay anh:
“Tóc em đã ướt rồi đây. Em vào ngủ trước đi. Anh muốn ngồi nán tí ngắm sao, và hít
thở thêm cái tê tái rất đặc thù và rất quý hiếm với chúng mình của vùng đất chỉ có thu và đông này.”
Tôi muốn ngồi với anh. Muốn lắm. Không chỉ lúc này. Thật ra, chưa bao giờ tôi muốn rời anh. Một phút sống bên anh là một hột quý kim. Một ngày sống bên anh đủ cho tôi kéo thành vòng xâu cổ. Nhưng tôi biết việc đáng giá hơn là không nên làm trái ý anh.
Vỗ lên bàn tay anh; rút về; tay áo tôi vướng và đánh rơi vật gì. Huyên (y thể biết trước là ‘nó’ sẽ rơi!) nhanh nhẹ hơn một cái chớp mắt, cúi, nhặt lên. Anh vuốt, đặt lại chỗ cũ. Mặt phẳng vuông, nâu lờ lợ. Tôi nóng mặt, ngượng, và tự giận mình quá! Sao mãi lúc này tôi mới biết là nó đã có đó? Nó không thể gì khác hơn là cuốn sách, cuốn tiểu thuyết mà anh bảo là hành trang tinh thần độc nhất, mang theo. Đây là lần thứ hai tôi trông thấy nó. Lần thứ nhất, là, hôm đến đây, từ phòng tắm bước ra, tôi thấy trên chiếc bàn ngủ. Mặt bàn không lớn, cuốn sách thì nhỏ bé, (tôi còn cảm giác là nó như đang ‘co ro’ trông thật tội nghiệp nữa!) lại là vật duy nhất đặt trên. Và sáng của ngọn đèn ngủ lại đang phủ lên nó, nên tôi không thể không nhìn thấy. Bức ảnh một cô gái chiếm hết trang bìa hút lấy tia mắt của tôi. Như chụp từ một bức vẽ sơn dầu. Màu tối. Thoáng chút xanh lá. Lợn cợn. Ngồi. Ghế. Lặng lẽ. Cam chịu. Tôi như vừa uống xong ly nước ấm. Tỉnh táo hẳn. Một chút xúc động và một chút gì đó như mối đồng cảm khiến sống lưng tôi rang lên. Tôi đọc được trên đầu sách ‘Portrait of Jennie’, và tên tác giả, hình như đã nghe đâu đó, Robert Nathan, (*) đều chữ nét khổ lớn. Jennie. Tên đẹp lắm! Hẳn là của con gái. Một cái tên bắt người ta phải lẩm nhẩm và bị vướng mắc trong miệng vì cái âm đọc. Và hẳn đây là một quyển truyện. Một truyện tình. Tôi nghĩ, đầu óc mang mang. Nhưng, còn việc cần lo hơn, nên tôi lắc đầu như xin phép để được bớt ân hận nếu phải quên nó.
Sao mình lại vô tâm đến độ bỏ lơ vật thể thiết thân đến mức của anh? Tôi ấp úng xin lỗi. Và bỗng thấy thật không phải với cô gái trong truyện. Tôi tự hỏi, anh mang sách ra làm gì? Đọc? Dưới ánh điện đường đau mắt, và dưới bầu tinh tú, tuy rực rỡ, song chỉ đủ để không cầm nhầm tách cà phê với cái gạt tàn? Hay chỉ mang ra nhằm biết là nó có đó cho an lòng?
Huyên cầm tay tôi đặt lên nó (bìa sách láng lượt như làn da người con gái) rồi ủ tay anh lên tay tôi:
“Đây là quyển sách được anh mang theo, trong mọi sinh hoạt. Lam biết không: dễ chừng anh đã đọc nó cả trăm lần. Dễ chừng anh đã thuộc gần hết số chương, số trang, số lần xuống dòng. Sự có mặt của nó có giá trị không kém sự có mặt của người thân thiết nhất mà mình đã từng yêu chiều, sống với, từng thiếu, mong. Nó là kỷ niệm. Là nhịp tim cho biết mình còn sống. Là tiếng biển cho biết là thế gian này vẫn còn âm thanh. Là tác động lắp đầy hư vô. Với anh, nó là loại ‘livre de chevet’. Là cái mà anh mang theo, dùng làm gối, khi đi vào giấc ngủ, kết thúc một ngày; và gửi lời chào một ngày mới khi trở ra, từ đó.”
Tôi rút tay, bấu nhẹ lên tay Huyên, thầm chào cô gái, chậm bước về hành lang hẹp chạy từ các phòng của tầng này ra sân. Quay lại, nhìn thẳng: bóng Huyên bất động như bức khắc nổi đã hoàn tất lên khúc cây đêm. Ngước lên: sao rất khít, rạng, tím, mỗi vì như một hột trái nhung, và sát mép tóc đến tưởng đưa tay lên là hái được. Trời thuôn thẳm như giếng mở. Tiếng côn trùng ri rả làm rêm rạn không gian lặng lờ. Lạnh, lúc này mới theo các đường nứt của âm thanh mà bốc khói. Mù lảng vảng đường trời viền quanh các dãy núi răng cưa thành phố tôi nhìn thấy từ trên phi cơ, và non năm đầu sinh sống. Tôi chóng mặt. Mùi hoa nào rất quen, ngửi được nơi mọi ngả đường, vào mọi lúc, của vùng hoang mạc đó. Nó quen đến điềm nhiên chen vào cuộc sống thường ngày của tôi, khi thức, cũng như lúc ngủ. Tôi phải thở, phải ‘nghe’, phải thường xuyên chạm mặt. Ngay cả trong không gian suy nghĩ của tôi. Đúng là mùi hoa đó, vì chỉ sơ sinh mà đã khá tượng hình, khá trì trệ. Tôi xua tay. Tôi sợ phải hắt hơi vì cái độ nồng đặc ám muội đen quá khứ. Tôi hất hủi nó. Tôi oan uổng xua đuổi nó. Chỉ vì ‘hắn’. Một lần nữa, tôi thấy mình không phải lẽ với cái đang làm nên cuộc sống này. Tôi chạy ào vào, đóng nhanh cửa.
Phòng không rộng, nhưng giường, đơn, thì lại. Nó chiếm hầu hết diện tích. 2 gối ngủ, và 2 gối ôm, thêu bông đỏ, thảy đều phồng bụng. Lạnh đến xắt lát cả hồi thở, đến quặn cả ruột, nhưng tôi không muốn mở sưởi. Tôi có thói quen, dù nhiệt độ thấp mấy, vẫn chỉ ngủ với thật tiết kiệm, hoặc không gì hết y trang, trên người, và mở cửa lưới. Tôi rất thích được trở về dạng thế của thai nhi; thích tự co rút trong chính mình, thích lắm, vì chỉ với vị thế này, hai phần trên dưới của cơ thể mới có thể tiếp xúc hỏi han nhau; thích được rã rời tay chân vì huyết dịch bị bó nghẽn; thích nghe tiếng hít hà và hồi lập cập từ răng trên xuống gót chân dưới trong mền bông dầy cộm. (Sở thích này, theo má tôi, bắt đầu có hồi còn chiến tranh. Xóm nghèo nhà tôi nằm bên kia đường sắt, không xa một đồn lính. Đêm đêm, cứ nhón mắt qua khe cửa là nhìn thấy khi một, khi hai chiếc dodge nhỏ đèn tù mù chở thương binh về chi khu. Người bị nhẹ thì được băng bó tại chỗ. Người bị nặng hơn phải nằm chờ, có khi hết đêm, mới kiếm được xe hồng thập tự chở lên quận hoặc ra phi trường đưa về quân y viện tỉnh cấp cứu. Sợ hãi do cái nhìn, cái phỏng đoán, cái biết thật, cộng thêm nỗi bạt hồn vì âm thanh của súng đạn lớn nhỏ từ cả hai phe, tiếng chiu chíu tách òa của hỏa châu, tuổi thơ của tôi từng ngày teo tóp. Phản ứng tự vệ và sinh tồn của tôi chỉ là chạy tót vào giường, trùm mền, run rẩy, nằm co, bịt tai, quên hết ăn uống, (và luôn cả nhu cầu vệ sinh!) Hàng chục năm đã tạo thành thói quen. Lúc đầu, thấy khó chịu. Mãi rồi, thấy hay.)
Cách nằm này, với người, là hành xác, là ngược với lời khuyên của y học, là muốn thu nhỏ mãi đến mức hết còn buồn khổ, hoặc, hết còn tồn tại, hay để, lạc quan hơn, với một số người: bắt đầu lại. Nó đúng, khi tôi xem tồn tại của mình như một bất hạnh. Và nó sai, khi tôi cho tồn tại, dù thế nào, và trên hết, như lời dạy của ba má tôi, không mang ý nghĩa tôn giáo hay tâm linh nào cao xa, mà chỉ dựa trên ý nghĩ từ người được ban tặng: là cái gì cần trân quý, là một đặc ân. Nhưng với sinh hoạt của riêng tôi, dẫu trong tâm trạng đày đọa nhất, nó là cách hưởng thụ, cụ thể hóa, nhâm nhi, hay thương xót cái hiện hữu an bình và khốn đốn của mình. Và, tóm lại, hết mực bình thường, được minh chứng bởi kinh nghiệm sống của chính tôi: nó giúp tôi ngủ ngon hơn, ít bị mộng hơn.
Tôi chợp được vài giấc đứt đoạn. Đứt đoạn, hẳn thế rồi, không thể khác, vì dù trong mơ, tôi vẫn biết là chỉ có tôi đang ngao du trong cõi này. Huyên còn đứng ngoài kia. Giữa hai chúng tôi là tấm vách mỏng muốt, nhưng ngùng ngoằng, dai, khó xuyên thủng, như mạng nhện. Trong mơ, tôi thấy Huyên. Tôi nằm cạnh anh (biên giới vẫn là bức vách đó), bên trái (theo ý anh. Anh nói, và tôi không biết thực hay đùa: anh chỉ thuận bên phải, nhất là khi hôn tôi). Nghe được anh thở, anh cựa mình, cảm được hơi ấm, sức chuyển của máu trong anh, nhưng không rờ tới được. Tay chân tôi như được độn bằng bông gòn. Không trọng lượng. Và không thể tự điều khiển. Anh đang kể tôi nghe chuyện gì rất vui; có đoạn rất tếu, rất… tục; rồi, tôi tỉnh lại. Hình ảnh sau rốt chưa kịp thoát khỏi mắt tôi đồng thời với cảm giác biết dưới hông đang bị cộm chiếc gối kẹp là đôi tay trờ tới (trong lúc tôi nghe cảm giác cộm thì anh đã đứng lên), rồi ngỡ ngàng rơi, của Huyên. Tôi sượng trơ, như bị đúc gỗ. Nhìn được, nghe được, nhưng khó bề mở miệng.
Trở ra sân, tôi thấy Huyên vẫn còn ngồi ‘đồng’ ở vị trí cũ (tách cà phê cùng gói thuốc ắt cũng chẳng di chuyển chút nào).
Sương lóng lánh giăng trên cầu tơ trong chậu cảnh bờ tường, và ánh đèn đường lấm ven mép bàn. Chiếc áo khoác tôi mang ra cho Huyên lúc chiều vẫn còn móc quanh vai ghế. Tôi chưa biết sẽ phải làm gì thì sàn đá trơn đã đẩy tôi đến sau lưng anh. Cái gạt tàn là cái trình diện trước tôi đầu tiên: nó chẳng đầy thêm. Chỉ đầy thêm là, mỏm tóc sát gáy anh đã như được rắc phấn trắng. Tôi phân vân lắm, nhưng không dám gọi. Hướng gục đầu của Huyên đưa mắt tôi trớt lên mặt bàn, bên tách trà (chính tôi pha): màu trắng của bìa sách: quyển sách đã được đặt úp xuống. À. Phải vậy chứ. Tôi tự la thầm: chỉ có cuốn truyện là có thể ‘nạy’ Huyên ra khỏi cái thế ‘kiết già’ của anh.
Nơi Huyên có cái gì bất biến. (Và đó là cái kết luận ngắn, và bất biến của tôi, về anh.) Trong thế ngồi, nằm, đứng, khi ngủ cũng như lúc thức, khó tìm ra khác biệt. Hình như anh đang mang trong mình cả một trào thủy mênh mang, một lượng nước, là tổng số của những con chảy nhỏ, nhưng lưu âm của nó lại rất thầm, mềm, không đồng vọng, nhạt. Chỉ là cảm nghĩ của tôi. Nhưng ít ra là vậy. Những lúc đó (mà thường xuyên lắm), ngoại giới bị hư hóa. Nó, đúng hơn, cam thu nhỏ còn là một xơ chỉ trong mắt anh (khi anh mở chúng ra). Trong, tôi nhìn thấy sóng. Nhìn thấy, chứ không nghe được. Một con sóng là tổng số cuộn vọng của các con lộng khác, và nó đang bị đè nén. Chỉ lúc Huyên phát ngôn, tôi mới vin vào mớ ngữ kia mà lọc lấy một vài thuộc tính của chao động của thủy triều. [gian khổ như người đãi cát nhặt vàng!] Êm ả, phơn phớt quá lắm, làm tưởng đến sự cựa cậy của một ngón tay khi đang ngủ mê.
“Hy vọng chúng mình đến kịp trước khi chiếc quán ấy hết giờ phục vụ bữa ăn tối. Lẽ ra mình nên khởi hành sớm hơn cho đỡ tất tả.”
Cơn dội của hồi ức của mình? Không! Nó nhóc nhách từ không gian bé nhỏ cạnh bên. Từ anh. Hóa ra anh vẫn thức. Con nước nào vừa dìm anh xuống, và cơn nào vừa trả anh lại cho mình? Mình có thực sở hữu anh chưa? ‘Ai’, ‘cái gì’ được diễm phúc này? ‘Đối thủ’ của mình đáng sợ biết mấy! Nó vô hình. Mình chẳng thể ghen và chống lại kẻ vô hình. Trái lại là khác: mình cần thoả hiệp với nó, làm quen với nó, mong nó, lạnh lùng, nếu có, cũng đừng quá gây não nề như phần đời đã qua của mình (mình muốn nói đến ‘tác nhân thứ hai’, cái có thể tàn ác, vô cảm, chứ không phải ‘tác nhân thứ nhất’ là cô gái rất hồn nhiên trên bìa sách). Cũng trong anh, mình lại thấy như cùng lúc hiện diện hai mặt của cùng một sinh thể. Trong khi mặt này đối đáp, sinh hoạt, thì mặt thứ hai bàng bạc đâu đó trong anh làm công việc tương phản: lơ đãng; và bù đắp: nghỉ ngơi. Thời gian luôn liên tục với anh. Dù vài đêm trước thao thức, anh khoe, anh vẫn bắt đầu một ngày tỉnh táo, vui tươi. Anh bỡn, “ngày hay đêm, với anh, chỉ còn là tên gọi. Chỉ là hai khía của trái thời gian. Thời gian là bạn của anh. Em muốn trẻ đẹp lâu hơn người, anh có thể nhờ thời gian ủng hộ em độ mươi năm.”
Mình đã đỏ mặt, ngần ngật sung sướng, bởi hiểu đó là lời tán tỉnh, điều khó hơn cả nằm mơ, nơi Huyên.
*
Đèo cưỡi trên lưng biển song không nhất thiết lượn theo biển. Có đoạn, biển, đang mất dấu, bỗng bất ngờ chồm lên ù òa làm nó hốt hoảng tạt bắn sang bên. Đường mấp mẩy lom khom như cây gậy chạm trổ cầu kỳ. Lam phải luôn ghìm thắng.
Cảnh hai bên thật hùng vĩ. Một phía là đá chất tầng. Phía kia là chảo sâu chúi tuột. Khúm không gian trước kính xe có cùng màu xanh của vệt biển nổi sọc bên đây của tầm mắt. Con đèo chia đều khoảng cách giữa núi và vực. Vừa đủ cho hai xe trái chiều tránh nhau. Đoạn này, Lam chỉ qua một lần – đúng ra là một lượt đi nguyên lành và một lượt về tơi tả. Nhưng không ngờ nó quen quá, đến nỗi cô dễ dàng hình dung những chỗ gút gấp hay ưỡn lười. Nó như một chiếc chăn đắp – ít ra khi chưa đắp, cô đã nghĩ nó xứng với tên gọi này – mà khi rút vào đó rồi Lam mới biết, chẳng những nó không cho hơi nóng, mà lại bòn rút hết hơi nóng trong cô. Nhưng ký ức không bình an lại dễ ám chặt. Cô đã bị dính vào nó, bị nó đeo đuổi, trùm kín, từ chuyến đi ấy.
Mặt lộ thô, khoằm, nhưng Lam vẫn nhẹ nhàng vuốt xe theo các mũi gợn. Động cơ rầm rào vượt lên cả tiếng gió. Lam rộn rã. Cảm xúc khác lạ và tăng trưởng theo từng thước nhựa bị nuốt tươi dưới gầm xe. Còn non dặm nữa cô sẽ đến, với Huyên, đến quán trọ đó, lần thứ hai. Lần thứ nhất của đoạn đời nào xa, cô đến với ‘hắn’. Cái lần duy nhất kinh qua như một biến cố đau thương, một mối hận, nên cô vẫn muốn, muốn mà chưa làm được (hy vọng lần này sẽ) là, chôn vùi nó dưới trăm tầng khe của tiềm thức, muốn triệt tiêu nó để trọn vẹn nghiền ngẫm được tính độc tôn của lần thăm hôm nay. ‘Hắn’ nào kia của quá khứ dăm lúc vẫn chờn chợn trong giấc ngủ của cô như một ảnh bóng khủng khiếp, một gai cựa rách lòng, một nùi bề bộn trong ngày mà cô chưa kịp lược gọn trước khi vật xổ thân hình lên đống gối chăn mốc phấn dúi lách vào những tóp mơ khô bã vốn chỉ khiến cô rã rượi hơn buổi sáng hôm sau. Cô thù ghét nó. Cô khao khát trốn tránh được nó với việc cá cược cả phần lớn sinh mạng mình. Có phải vì thế mà Huyên xuất hiện với cô như một cứu chuộc?, Lam tự hỏi. Vì thế mà mình yêu Huyên ngay lần gặp đầu? Huyên là mẫu người không thể liệt kê, phân loại. Anh lịch thiệp, khéo xã giao; song, trong mắt cô, anh vẫn là một ốc đảo biệt lập. Nơi anh có gì kích thích, bắt cô phải tìm hiểu, tuy quanh anh là hàng rào ken đặc của bất định. Lồng trong mớ bùng bung kia, vào một khoảnh khắc tự vén màn, Huyên bỗng hóa hình là một khối thạch nhám nhúa, trong suốt, mà tâm điểm của nó lung linh những từ khóa của một bài thơ. Ký tự có thể rất khó hiểu, nhưng dầu sao vẫn là một sứ điệp. Mà quãng đời bây giờ của Lam thì kể ra cũng cần đến thứ mật ngữ đánh đố như vậy để ít nhiều dùng nó mà trung hòa mối ám chướng cũ.
“Anh đỡ hơn chút nào chưa?” Lam hỏi, nhưng mắt vẫn không dám rời con lươn xoăn xoe phía trước.
Tiếng nói nào từ trong tưởng nhớ, hay câu trả lời của Huyên?, lãng đãng:
“Đến rồi!”
Biển phỗng phễnh như quả cầu vừa ăn no khí. Kim của chiếc đồng hồ kỳ vĩ của thiên nhiên quay nửa vòng, vẽ nên cánh cung láng lướt bén ngọt. Lam quáng mắt đến phải ngừng vội xe giữa đường. Chỗ này ngổn ngộn đá tảng. Thùng xe bị hẩy hất lên. Lam trớt người sang trái. Cô suýt hô hoán khi thấy mặt trời nóng và nặng đang quay bông vụ trước ván kiếng hực hỡ. Cô chận tay lên ngực. Chưa kịp chìm trong thảng thốt thì ngay sau, cô nghe tiếng mở và đóng cửa xe; và khuôn mặt Huyên chuồi sát tóc cô. Đang bị vần vụ, nhưng Lam vẫn nghe hơi thở ấm và nụ cười xanh dịu như ngọn đèn trần của Huyên sạt dưới hốc tai. Chúng khiến cô ngây ngất và rợn sướng như đang được anh chu miệng thổi phù lên đó. Lam khép mi, lặn sâu trong vịnh hào quang mướt mát quý hiếm thơm tho hơn tất cả.
Huyên mở cửa cho Lam, tránh lui. Cô bước ra.
Choáng ngợp:
“Anh xem kìa, biển đẹp quá! Chưa bao giờ em thấy biển đài các và lộng lẫy như chiều nay! Như thiên nữ nào trong thần thoại ấy… Đẹp, và huyền hoặc!”
Huyên mỉm cười:
“Trong những sự vật gọi là huyền bí thì có gì hơn biển cả? Và trong các sự vật gợi tưởng tượng nhiều nhất cho ta thì còn gì hơn biển cả, khối nước vĩ đại trước mắt chúng ta kia không?”
Màu xanh bềnh bồng của biển được phết thêm vài tầng nữa. Bạc óng ánh và vàng long lanh, chao chát theo gió. Lấm chấm thuyền đánh cá hút xa, theo sóng nhồi, đến lúc nào đó sẽ ngỡ chúng đang cập bờ. Thảm nước ngút ngàn, nhìn hẫng tim.
Bãi thoai thoải, không dài, cát ngà, mịn, một hướng trợt suông, hướng kia bị chận bởi hàng dương cột đứng tóc. Sóng uống nước của nó vào, súc miệng, và nhả ra bọt sữa váng kem cùng lời thì thầm nho nhỏ.
Cô ngẩn ngơ:
“Biển đẹp, như người, anh ạ…
… Biển.. đã biến thành.. ng..ư.ờ.i!” cô ú ớ mộng du.
Huyên kéo sát cô vào, hôn phẩy lên trán. Cô ngà, và dẻo như miếng đậu hũ đã sắc hết nước.
Có đến nửa phút sau, giọng anh ngậm ngùi:
“Biển đã thành người thời gian mới đây thôi. Phải. Bao sinh mệnh sống và chết chen chúc trong nó, xâm lấn, lấp đầy căn nhà của nó bằng chính thân xác họ, bằng tiếng thét ai oán muộn màng mênh mông hy vọng của họ gửi cho chính mình thì ít, mà nhiều hơn, cho các thân nhân, những người đồng cảnh trong phút giây thông linh đầu tiên và cuối cùng khi tất cả vừa nhác thấy bóng dáng của tự do. Biển đã mặc vào linh hồn người. Cái đẹp của biển do đó còn chứa đựng trong nó cái gì như ‘nhân tính’ nữa.”
Mặt đất tròng trành dưới chân cô. Mùi muối theo gió, nặng đến đọng giọt, như nước thạch nhũ, như mưa rươi, rào rạo, xuống. Nơi này vẫn rất gió, tuy không tơi bời bằng giao lộ giữa núi và đèo đã vượt qua. Biển sà ngay vào võng mắt, lộn lạo, cào cơi, bới bung, sôi sục. Con thuyền-cô bị nhồi lắc trong miên man xanh tái. Biển ọi ong óng từ phổi dưới. Trái tim cô như viên bấc bập bềnh. Cô sẽ ngã, sẽ tã nhầu vô hồn, lần này chắc tệ hại hơn lần tệ hại nhất trong bao ngày? Bao ngày chỉ thở bằng, và uống, và hấp hối, và sống sót nhờ, hơi nước biển. Bằng cắm cọc khai sinh lên những hòn đảo nhấp nhô theo từng bợn mặn thít chặt mi chớp.
Cánh tay của Huyên như bờ đất liền đưa tới, đón cô. Cô thả nổi tất cả, từ cơn vật vạ ê ẩm toàn thân đến niềm hân hoan rần rật đang bò lên từ đôi chân. Lam tựa hẳn vào gốc cổ thụ cho từng lỗ chân lông rợn căng dậm dật khi mấy ngón tay của Huyên bấu chặt thoạt đầu, rồi vờn xoa như xăm lỗ làm thón thót luống lông trên một phần của cánh tay trần. Bụng cô hóp lại. Đói? Một cái gì cồn cào cuộn chiếu tựa sâu đo. Rồi bỗng dưng, nó căng cứng. Nhay nhức lây sang đôi vú cờn cợn thèm muốn được nâng nắn, cởi buồm. Cô muốn vỡ. Muốn chảy tan thành nước. Cô quên hết biển, sóng, gió, mặt trời xế chếch. Con tim đang như bơ nhão trong hơi ấm truyền sang từ người đàn ông.
Cánh râm rạp xuống. Đôi mắt người lao xao và chinh chích tiếng ong:
“Tội thay cho cô bé! Đoạn đèo quả là trắc nghiệm quá đáng với cô!”
Lần đầu Lam nghe cách gọi tên cô, rất trìu mến, rất lạ. Linh giác của cô bảo cô rằng, Huyên đang nói với cô qua hình ảnh nào đó. Cô gái trong quyển sách? Phải chăng, đây mới thực sự là thử thách? Cô thầm thào với cô gái nơi bìa sách màu nâu lợ, hãy là bạn với nhau đi thôi; với cánh tay đang kề dưới cằm: còn thử thách nào ghê gớm hơn là thử thách nơi trang giấy mà em dự tính sẽ đặt bút xuống phết điểm tròn sang hàng đang ở phía trước? Lượng can đảm cần thiết là cái em đang cầu xin.
*
Như trong chuyện tranh, giữa một vùng thâm u tận trời cuối đất chỉ có trắng của sương mưa, vàng của gió, xanh của lá cùng chỉ 7 màu của hoa và tiếng hót chim, sự có mặt của một kiến trúc bằng gỗ giống như cú đội lên của một cù lao giữa trùng khơi. Con người đã xẻ núi, băng đèo, lần mò được đến nơi đây, và đánh dấu kỳ tích chinh phục bằng một tác phẩm, thành quả của tháng ngày hì hục xẻ gọn một góc rừng đồi đúc cô trong ngàn súc gỗ tròn thô sơ đan kín cách vụng về cố ý tạo khung cho cái gọi là ‘nhà nghỉ’ 4 bề vèn vẹn nét rêu phong.
Thớt gỗ lớn hình quả trám, cắt nguyên si từ một thân cây trăm tuổi còn thòng thõng những vân vỏ lôm côm, đục lõm quanh tim mấy nét ngoọc ngoẹc như của trẻ con mới tập viết ‘Robin Hood’s Inn’, viền ngoài chạy 2 lớp hình chữ O bóp dẹp, được móc bằng xích to tựa các ngón tay của gã khổng lồ hai góc trên ngốn trọn chiều dài của mái nơi cửa chính. Dây leo râu bạc phếch quấn ngoáy vào nhau, ngộ nghĩnh đun đưa từ trên nóc xuống.
Lối vào cũng được đắp ụ bằng các lóng cây đẽo hình các bàn chân móng toạt của người sơ sử.
Tên quán, có lẽ, khiến khách thích thú hơn là ngoại hình lệch lạc kém tự nhiên của nó. Không chỗ đậu xe. Người ta thoải mái sử dụng bãi trống thênh thang chung quanh cho mục đích này.
Nó như một căn lều quá khổ bị bỏ phế. Chỉ còn chờ sự xuất hiện giữa mây mù của bà phù thủy áo đen là một cuốn phim ma quái được khởi chiếu.
Huyên và tôi là hai lữ khách hiếm hoi ghé lại đó, nơi cung cấp thức ăn và chỗ ngụ cho kẻ lỡ đường. Đúng là chỉ cho kẻ lỡ đường, bởi những ai có chút tiền, chút thời giờ và chút so sánh đều ngần ngừ khi phải chấp nhận nó; và họ thật sự biết mình đúng khi ngần ngại như vậy nếu có dịp nghỉ qua đêm: bé nhỏ, lam lũ, phòng ốc thưa thớt, thiếu tiện nghi, thực đơn xoàng xĩnh, thái độ hững hờ của nhân viên.
Nằm quắp trong một góc tỉnh lộ, kiến trúc rừng rú này khó bị phát hiện bởi những tia mắt đăm đăm dõi dặm trường. Dù có, ngoại dạng kém thu hút của nó vẫn đủ khiến du khách sẵn sàng vượt thêm một chặng nữa, khá xa – dẫu đã mệt vì lượt hành trình. Họ dừng xe tại những hàng quán dưới kia. Nơi đó, dung nhan sơn lâm đã bị gội rửa gần hết. Mọi cái đều hào hoa văn minh, tốt, hiếu khách, và cao cấp (nhất là về giá cả).
Với tôi, đây là nơi lý tưởng. Trạm trung chuyển giữa biển nóng vừa qua, hướng cánh tay này, và biển ấm (theo quảng cáo của tập san du lịch), một ngày nào đó hy vọng là chúng tôi sẽ đến, hướng cánh tay còn lại bẻ khoằm, sau khi chịu thêm khoảng 40 phút ngồi xe. Biển trong chương trình tìm hiểu của chúng tôi cũng là biển ‘trung chuyển’: nó không nóng, không ấm, mà lạnh, từ lữ điếm đi chân ngược về hướng tây bắc khoảng 30 phút.
Tôi không gọi là ‘quán.’ Tôi đặt tên cho nó là ‘nhà.’ Tôi đã đi, khi còn trống trải. Hôm nay trở về, với cơn mưa đầu mùa trường sinh đang xì xèo trong tim.
Cảnh thì tịnh. Nhưng lòng tôi thì động. Nó bắt tim tôi làm việc thặng dư. Nó lào xào hoài khiến tôi mệt. Tôi lặng bước về sâu cuối phòng, ngồi xuống chiếc ghế rơm gần nhất. Người tôi nhão nhừ. Tôi ao ước ngủ được vài phút. Mắt tôi khá mỏi. Hai vai ràn rạt tựa như thiếu, mà cũng như dư máu. Đó là tín hiệu của sự sắp đuối. Tôi quá quen với cảm giác này.
Không chỉ đau khổ, hạnh phúc vẫn có thể khiến mình mệt lả.
Phòng biệt âm hoàn hảo. Rào rào tiếng máy sưởi trên trần. Tôi lim dim dưỡng thần vài giây, tập đảo mắt cho chúng đỡ mỏi. Cũng cuối góc, trông xéo vào trong, dưới ánh đèn mật ong, bức tranh thủy mạc khá to vẽ một cảnh hồ đang bốc hơi. Từ đó khoảng hơn thước theo hướng suốt ra ngoài cửa, giò thủy tiên (không biết giả hay thực) đặt lên chiếc bàn chân cao vẫn vàng rực dù đã bị pha vào chút xanh hồng của chiếc bóng điện gắn ẩn trong tường, trong khi mấy cánh tay lá có màu của nước nho xay. Hai chậu cảnh ngự hai bên, chiếm hơn nửa chiều dọc của căn phòng được ánh sáng khéo léo cắt chia thành từng ô chữ nhật thật đều. Vài ba bức tranh lập thể vuông gọn rải các phần tường còn lại. Quầy thu ngân (Huyên đang đứng trò chuyện với cô thư ký), từ chỗ tôi ngồi nhìn đến, bị cắt nhọn lên một đường xiên mỏng bởi mũi giáo của pho tượng kỵ mã bằng đồng thời La-Mã cổ. Bể cá lóng lánh sóng liên tục đổi màu là cái cuối cùng nằm trong giới hạn của tầm nhìn.
Tất cả dịu dàng, mơ hồ.
Tôi thấy như đang sống trong hành tinh khác. Nó, cũng y hệt trong truyện tranh thiếu nhi, mới vừa được xây dựng, tạm bợ, mỏng mảnh, nhưng tự dưng, tôi thiết tha với nó quá lẽ. Nhất là bây giờ, trên hành tinh kia còn có Huyên. Cơn chóng mặt hả hơi như khói thuốc. Người cứ chông chênh. Tôi có thể té nhào lắm, dầu đang ngồi; chỉ mong nếu có thì thế bật ra của tôi phải thật êm (tựa như khi tôi cẩn thận đặt xuống bàn tờ thư giấy mỏng của các cô bạn thân nhằm giữ cho các cạnh góc của nó luôn phẳng phiu), và hình ảnh của người đàn ông vẫn hoàn toàn liền lạc trong tầm mắt. Tôi tựa lưng vào tường, đầu đụng vào cạnh của cái gì như là viền dưới của bức tranh (lại tranh! Khách sạn này treo nhiều tranh quá. Trong các phòng khác, có thể cũng chỉ là tranh.) Ánh sáng càng làm trầm trọng hơn cơn buồn ngủ. Không khí vắng ngắt, hành lang ám mùi khói nóng. Quầy tiếp tân với kệ đựng những chai rượu phía sau. Nước rượu màu hổ phách, và có thể, trong đôi mắt khó nhướng lên được của tôi, nó đã thôi màu sang ánh nến âm trầm nháy nhó trên quầy, xuống loang đốm luôn mái tóc của cô tiếp tân xong việc đang mải mê tìm vui trên tờ báo hình. Tôi mỉm cười: cô ấy, và tôi nữa, và Huyên, đang nhập vào dòng tĩnh vật chung quanh.
Mắt tôi nhắm lại. Một đám gió màu đỏ thổi thốc từ hai bên khóe. Máu kết những bàn tay bóp nhíu vùng trán và đỉnh ót.
Giống mơ hơn thật: tấu khúc ‘Come Back to Sorrento’ mờ mờ ảo ảo chờn vờn chung quanh. Cái quen thuộc đã trở về.
Mấy dây vĩ cầm tinh nghịch thả tay xuống tóc tôi. (Khác gì những ngón tay của Huyên?) Chúng bới trong chùm tích cảm của tôi, trên, khắp. Thế là tôi căng ra, mỏng lụa. Trận mưa bóng mây úp xuống, như thau nước, thềnh chảy hai bên thái dương. Tôi nhón chân. Tôi muốn múa, muốn khoe diễn khả năng quậy phá vẫy vùng trong nước như hồi còn bé, nhưng không thể. Tôi đang trong trạng thái của óc não bồng bọt vì ma túy. Tôi rên thầm với chính tôi: đây quả là thứ thần dược chỉ tìm được trong ước muốn! Tôi không những chỉ nhìn thấy 5, 6, 7… sợi óng ả, mà từ 5, 6, 7… sợi óng ả kia, ngàn muôn sợi khác đang chiết tỏa từ tâm của chúng. Không khác một vỏ sò, một làn sóng khuếch tán, một bông sen vĩ đại, nhưng uyển chuyển hơn, và réo rắt. Tôi đã nghe, bao lần rồi, đến tự động nối kết từng nốt bay nhảy của nó, âm thanh, trong sóng biển. Tôi hình dung như vậy. Ấy là hồi xưa. Nhưng hôm nay tôi thực sự nhìn thấy chúng đang tung tăng vấy nước lên quanh tôi. Rồi từng sợi lông, từng sợi nhột trên thân thể và trong hồn tôi cùng cưỡi gió. Tôi vươn lên. Tôi giãn ra. Thứ hạnh phúc mà bây giờ, tuy là của riêng tôi, nhưng hơi thở chìm đắm của tôi trong bầu khí kia còn có hơi thở của một người khác trộn vào. Tôi đang vào đó, nhưng không muốn vào đó một mình. Tôi muốn chia sớt, và muốn nghe tiếng nói trên những bước chân của người đi cạnh.
Bài hát thật hợp cảnh, hợp tình. Tôi đang trở về mái nhà xưa. Có tiếng róc rách. Với tâm trạng khác, và với người đã cho tôi tâm trạng khác.
Cảnh trí giống như cuộn phim thời kỳ chưa lồng tiếng (thế lại hay). Con người như đang sinh hoạt ngoài rìa của quả đất. Tôi dụi mắt. Ô. Chúng lại ướt rồi! Lạ! Đau khổ siết chặt tuyến lệ, trong khi hạnh phúc lại buông lơi nó! Mà thôi. Phải trở về chứ. Không thể thiếp mê hoài. Huyên của tôi đang mỉm cười chờ tôi với xấp giấy vẫy về phía tôi kia.
(Tôi đang cần mượn anh chiếc khăn tay bằng vải, vật đã trở thành hết còn cần thiết trong cuộc sống hiện nay, nhưng với ‘người ngoài hành tinh’ như anh thì lúc nào cũng sẵn.)
*
Trần phòng thấp, ván tường mấp mô gợn sóng; diện tích chỉ đủ cho chiếc giường và hộp tắm đứng đã quá tuyệt cho một không gian ôm ấp tôi và Huyên. Tôi hài lòng khi giữa 2 đứa không còn chướng ngại nào.
Huyên mở cửa sổ, nhìn ngây ra ngoài. Anh gầy quá! Nhưng bóng đang tối vẫn khó đồng hóa anh vào nó được. Nhất là cái thân hình thẳng tắp kia. Nó như gốc thông, tuy cành lá đã ít nhiều thưa ngắn, nhưng hình ảnh của một lăng trụ uy nghi của nó vẫn còn. Nó muốn đâm rách bóng tối mà ngoi ra. Chỉ có mái tóc dài và còn khá đen là khả dĩ thuận chịu sự đồng nhập kia. Tôi khoái chí với cái bạo dạn len lén là vừa được ngắm Huyên như một nhà khoa học trước một vật thể sau bao miệt mài mới tìm thấy, vừa như một cõi mà tôi sẽ nhón gót vào đó để làm quen và sống nhờ mãi trong, cùng. Huyên thì, tôi biết, săn són là để phần lớn làm vui tôi. Anh tươi cười đón nhận, nhưng không vồn vập chuyên chú hay đặc biệt ưu ái bất cứ. Không gì có thể là dấu hỏi với anh. Anh có lần nói – nhằm trả lời thắc mắc của tôi -: thái độ ấy tuy tiêu cực, nhưng nó giúp mình tránh khỏi các câu trả lời. Cách đặt nghi vấn, nếu trong vài trường hợp đã quá khó khăn, thì tìm đáp số cho chúng lại càng gian nan biết mấy! Tôi bất bình, nhưng là người thì phải có đam mê chứ? Em sẵn lòng chấp nhận một thứ đam mê thái quá, quái dị, hoặc kém lành mạnh, nhưng ít ra nó cũng phác thảo được một cá tính, một khuynh hướng, một bản vị. Em sợ sao khi phải chạm trán một con-người-chung-chung. Nó như một khuôn mặt bọc sáp. Rợn như một xác ướp. Nó không máu, và làm mất máu mình. Huyên hôn tôi, em tự dằn vặt thế liệu ích gì? Với ý hướng, anh tạm gọi, như vậy, em có thể làm tái sinh (tham vọng thay!) hay chôn lấp một vài khía cạnh, hoặc toàn thể chuyện đã qua? Thế nào là một nhân dáng đích thực? Cái mà em (và một số người khác) khoác vào, sơn thếp bằng son bằng mực vẩy vúng bằng hương liệu kia là cái mà em muốn, và muốn thế nhân nghĩ về, và cho đó là chân ngã của em ư? Mà trước hết, em tin tưởng vào điều đó không đã? Cái ‘giống như thực’ dễ được chúng mình cho là lẽ phải. Vấn nạn là tốt. Học, là hỏi. Nhưng có những vấn nạn trong đó trú sẵn đáp án. Không hẳn câu hỏi nào cũng buộc lời giải. Lắm khi chính câu hỏi soi sáng sự việc hơn cả câu trả lời.
Tôi nhớ, khi xin phép một tuần, tôi mời, và Huyên (đang chờ kết quả phỏng vấn cho một công việc mới, ở phân bộ khác, nhưng cũng cùng công ty) nhận lời đến thăm vùng biển này. Tôi thì yêu biển ngay thời còn bé. Thị trấn nơi tôi sinh trưởng nhỏ nhất về diện tích so với 2 anh chị của nó trong quận, nhưng lại gần thị xã nhất, và giàu có nhất vì được thiên nhiên bù tặng cho mọi thứ: núi, sông, biển. Tôi yêu tất cả các thứ đó. Nhưng cái được tôi ưu ái hơn hết là biển. Quá khứ của gần hai mươi năm duyên hải Việt Nam cùng nhịp xe thổ mộ mỗi sáng tinh sương và mỗi chiều sẫm tối tung túc như sóng rúc qua khe đã đưa âm và màu biển vào sâu trong ký ức tôi. Sắc thái quê hương mà tôi mang theo sang đây là hai màu xanh: của nước, và của lá, hoa. Hành trình về ‘miền đất hứa’ cho tôi lăn lóc thỏa thuê phạc phờ lần cuối với biển. Thành phố tôi đến không có biển. Núi non cắt xén trời xanh. Tôi nghe lẻ loi. Đêm ngủ, tôi vẫn nghe sóng vỗ trong mơ. Lúc ấy tâm hồn tôi còn hoài vọng quá nhiều vào một cội quen đã mất (chưa biết bao giờ tìm thấy lại) và chưa sẵn lòng hỏi han đến một chốn lạ đầy hư hoặc và chẳng chút gợi ấm.
*
Bầu trời rồi sẽ như một tấm giấy chuyển theo độ màu mà nó nhận được từ ngoài.
Mấy hiệp cố len lách, cuối cùng, một đường nắng, tuy mỏng, đâm rách được màn sương mưa. Nó là hứa hẹn đáng tin cậy nhất cho cuộc trình diện toàn phần của mặt trời. Cụm dầy lá xanh thẫm sát hương lộ vắng hoe dần dần rực cam. Nắng, bây giờ mới được gọi là nắng, hoan hỉ cọ cạnh dưới của nó lên gờ trái của tán cây, nơi màu xanh vẫn nguyên si. Tuy thế, chính chóp lá mới là nơi nhận phản chiếu nhiều nhất, bởi chính cái phễu xanh nơi gờ trái này nhận tia mặt trời và hất ngược lên chóp. Gờ phải nhìn ra bị cắt thành những vệt dài là những dây điện đường mà sợi chỉ mù đêm khiến cho chúng như bị bóc vỏ, chạy ngang. Cứ men theo các cọng thép to tướng này về tít phải, tầm mắt sẽ chạm ngọn đèn đỏ hoa hòe gắn trên đỉnh tháp, nơi cột ăng-ten xoãi chân nom như muốn bay vút lên theo sự hướng dẫn của chấm sáng ràn rụa kia.
Ánh trời tiếp tục cựa quẫy; như một hài nhi uống được hơi thần, vụt lên. Nó tham lam há miệng nuốt dần màu tím mờ của cây cỏ; và hơn cả một nhà pha chế tài ba, dùng chất xúc tác từ trong chính cơ thể, biến màu này thành màu vàng trắng. Tựa vào ngoại sắc chỉ để bước lên; siêu lực cung cấp là từ nguồn của chính nó và cái nguồn mà chân được đổ khuôn bằng bạc lỏng đó càng lúc càng như một miệng giếng phun theo chiều thẳng đứng. Nó được gọi là ngày, là đã quá bình minh của một thời tiết lạnh cắt ngọt ly kem, của sáng sủa, tách bạch đến đôi khi bạc bẽo, trắng trợn; là đối thủ muôn đời của đêm, của những sắc đèn màu, lúc dầy lúc thưa, mà con người lồng vào để che mắt, đánh lạc, lần khân bước về của rạng đông. Đêm không còn là vỉ thép kiên cố. Vầng sáng mỏng như huyễn ảnh đã làm lung lay được nó. Hiệp gà rừng thứ mấy tiếp theo, làm chiếc cánh đen vĩ đại rùng mình. Như một toán phục binh tài tình, nhẫn nại, đeo vào vết nứt phòng ngự, tách dần ra, sắc lợt lạt của ban mai bắt đầu, và khá nhanh, phá thủng thêm một vệt chân chim cho đồng đội tràn vào. Cán cân lực lượng giữa đêm và ngày thu nhỏ dần theo sự chảy lan của vết chân chim kia. Đồng minh của chúng, đoàn quân ánh sáng ngày đó: tiếng on ót của hoẵng nai, tiếng vút veo của đàn sẻ mập mạp, tiếng xọp xẹp phì phèo của chiếc dù nước đang hất bớt gánh nặng để dễ dàng cụp xuống càng tăng thêm lực xung kích. Lòng nhựa đá vật vã. Hai luồng rùng chuyển trên cùng dưới xoắn hợp nhau, rút chạy, nhường trận địa lại cho đối thủ. Khí đời nhẹ tênh đã tìm được sức nặng.
Vòng sinh hiện mới vừa bắt đầu.
Huyên mỉm cười. Một đêm không ngủ và dòng thác mới vừa cấy trong thân thể và trái tim. Mình đã có mặt. Mình có thể gọi dĩ vãng về bắt tay hiện tại rồi đấy. Chỉ cần vài bước ngắn. Ai trong đó đang ngủ, đang mơ gì?
Nắng đang chảy khói.
Anh tìm khoảng tương đối khô ráo không xa phòng trọ, sát lan can, ngồi xuống, nhắm mắt, xếp bằng, hai tay vẽ vờn mở trang thứ nhất bài dưỡng sinh quen thuộc.
*
Sáng hôm sau, chính Huyên đánh thức tôi, bảo cùng thả bộ thăm ven biên thị xã. Ngày nghỉ cuối, anh nói, cố mà tích trữ thật lực vào bộ óc những gì có thể. Màn cửa đã được vén. Nắng sắp leo đến hông cây trong vườn nối thẳng với vạt rừng trước mắt. Buổi sáng đã đi một đoạn hơn gang tay. Bên ngoài tươi tắn, có tiếng chim hót và tiếng nhựa cây lách tách, và có vẻ ấm, nhưng trong phòng vẫn còn rất lạnh. Cái lạnh tình tứ, chứ không sỗ sàng như cái lạnh nơi chúng tôi đang sống.
Tôi e thẹn ngồi lên, vào phòng tắm. Mặt gương hình bầu dục bị trầy trụa rỉ sét, song tôi vẫn nhận ra đôi mắt bum búp đỏ, hai má xanh xao. Bộ dạng hụt kém, nhưng cơ thể ứ ừ. Tôi vuốt bụng vì cảm tưởng có gì đang cợn lên. Nó cấn và làm lệch bàn tay. Có gì? Sau đêm qua, với Huyên? Ôi chao! Mình mộng tưởng quá đà rồi! Nhưng quả thật tôi đang nghĩ tôi chỉ chính thức trở thành đàn bà từ đêm qua thôi. Sự việc của hôm nào đó không có sự đồng thuận và tham gia của tôi, nên vô nghĩa; và hôm nay nó thực sự vô nghĩa. Quả thật dễ chịu với kết luận như vậy. Và tôi cũng đang rất thèm được thêm giấc nữa, thật dài, trong chăn, để lần nữa, thật lâu, một mình, nhai nhấm lại trái tình vừa mới. Tôi nóng tai, chun mũi tự cười nhạo, đưa cao vợt phấn.
Trừ nhà trọ mà chúng tôi đang thuê nằm biệt lập hẳn, các con phố còn lại của thị trấn cố gắng túm tụm lại, đan chéo qua nhau như để khỏi phải bị cách ly nhau. Dẫu đây là trung tâm phố thị, chúng vẫn không giúp che giấu hết hình ảnh của một cơ thể không lấy gì khang kiện. Lác đác các tiệm bán quà lưu niệm, quán ăn, cà phê…; tất cả là những mô hình trên sa bàn, ngay ngắn, cùng kích thước; và những lằn vạch phân cách các khu phố cũng được kẻ đại khái, bởi mỏng như thân bút chì. Đường tẻ dọc ngang, cắt cụp bất ngờ, hẹp, ngắn; và một chiều, chỉ thích hợp cho việc đi bộ. May mà tên của chúng bằng tiếng Tây ban Nha giông giống tiếng Pháp nên chúng tôi có thể suy luận cho dễ nhớ. Các cửa hiệu cặp kè giăng tay nhau làm thành một vòng ôm nửa vuông, nửa quả trám, để có lẽ vì thế huê viên lồi lên giữa thị trấn mang tên Diamond Gardens.
Sắp trưa, song phố vẫn vắng. Xe qua lại ngần ngừ rối trí như trong phim Charlot mà hồi nhỏ vẫn xem, nom rất buồn cười. Trời ấm hơn trong khách sạn.
Dãy trắc bá trước mắt lên chiều ngả ngớn. Ngõ lệch về phải. Mặt lộ rộng hơn. Sinh khí hơn. Và sức sống lúc này mới bắt đầu. Gió hớn hở và thổi lên mặt trời mắt trắng. Chân vịt dính bợt xanh.
Bình minh muộn trên biển! Là chồng nến trong mắt. Khay bánh của tạo hóa đang được những nhát dao khánh thành của vầng dương cắt đều từng khía 3 góc, như múi phó mát Con Bò Cười. Rồi trái táo hơi nhô lên tròn xoe như khuôn mặt hồng hào thỏa mãn của người có ngày sinh rơi vào hôm nay đang chu môi thổi nến. Các ngọn đèn tắt, cũng là lúc ước mơ đã biến thành thực. Ánh sáng từ những lời mong cầu đang chen chúc trên mấy hàng cọ gọn ghẽ vừa được tỉa xén.
Đúng là biển ‘mẹ’, theo cách nói của Lam. Lòng nước như nhoi lên từ dưới tâm quả địa cầu. Mặt đất rách rạn, và nước như những mạch máu li ti rỉ ra. Nước dính nhíu vào võng mạc, mà mỗi chút con mắt di động là mỗi chút trương độ của nó nở theo. Càng nhìn, càng cảm giác như đất đai, cây cối chung quanh đang tan nhập vào nó. Chất ướt của nó, khi lỡ chạm vào, sẽ làm mưa làm lũ trong tia nhìn. Từ đất, nước sẽ vươn lên không. Xòe bàn tay với trăm nghìn ngón trắng xóa. Chỉ một cái ngoặc xuống, nước đã thâu tóm tất cả vào. Rất lặng lẽ. Ta sẽ không, và sẽ không kịp ngỡ ngàng, bởi chỉ tưởng đang xem một cuộn phim quay thật chậm. Một xâm thực trong tiềm thức, trong mê man. Rất nhu hòa; và cái bị xâm thực dường như không cảm nhận được, hoặc giả, nhận chịu sự đồng nhập kia.
Nó là một diệu kỳ của thiên nhiên. Tôi vẫn nhớ cách giải thích từ sách vở. Và vẫn ngây ngô thắc mắc là, không hiểu tại sao giữa rừng cây đá sỏi cứng rắn lại có thể trồi lên một khối lỏng vô bờ như thế. Tôi bị mê hoặc. Bị ngưng thở. Bị tước hết mọi phản ứng. Bị chết đuối. Trong nó. Tôi chưa biết nó là thế nào. Nhưng nó đã yểm câu trả lời của tôi về sự có mặt, hay mất tích, của một người. Tôi hỏi, hỏi, từng ngày sống, mà vẫn chưa nhận được hồi âm từ nó. Đối diện với nó, không hiểu có phải từ lởi gọi của chính nó, hay trong chính tôi, có tiếng nói nào đó, bảo, tôi hãy để nó ‘nuốt’ (như một nhân vật trong cổ truyện đã làm để giải cứu người thân), hãy ‘vào’ nó bởi có thế, tôi mới biến thành nó; và như thế, trong đó, tôi sẽ tìm được, hoặc nó sẽ tiết lộ, lời giải.
Thị trấn hoang sơ. Cái đẹp của tạo vật như một đền bù đau xót. Biển của ngày lập thế, hiền lành. Nó hiền lành đến như sắp leo lên tường tự hóa thành bức thủy họa. Ngay cả tiếng chim đùa giỡn, cũng rất rụt rè. Nắng pha với một chút lạnh lẽo. Một bức tranh, có thực. Tê tái. Như nước biển dưới kia. Hẳn đây, theo cẩm nang du lịch vùng, là lý do khiến nó phải nhường hầu hết tính chất vồ vập phức tạp cho bãi biển, tuy ngắn hơn, nhưng hung hãn, kích thích, tích nhiệt, và đích thực hoạt náo, dưới kia.
Vị biển đạm như cốc muối pha thật nhiều nước. Nó làm chùng, chay lòng, đến the cả lưỡi.
*
Lam kéo tay Huyên về hướng có độ chếch nhất, lần lên một ngọn đồi. Hàng thông um sùm thấp tối mập mạp tựa sồi. Tán lá loại này, Lam chẳng mấy thích. Nó kém mịn mướt, và cách phân bố cũng kém khoáng đạt là yếu tố mà cô nghĩ là cần cho thông trong việc tự phân biệt với đồng loại. Ở đây, thông và biển hội ngộ nhau. Nơi đất nước cô, thông đẹp nhất tập trung trên cao nguyên.
Con đường tẻ ba khi tuột dốc. Bàn tay phố xá xòe nan hoa, mù tinh ma trận. Ngõ lối nhằng nhịt hơn. Mỗi con hẻm như tự phân hai, ba, nhiều… Nó là một địa giới khác, không tên, và cũng không liên hệ gì với khu phố vừa đi qua. Huyên lắc đầu:
“Rối quá! Có bản đồ cũng chịu. Anh không phải là dân giao bánh pizza như ông bạn cùng phòng. Rất kém việc dò đường. Nhường cho em đó.”
Lam phân vân:
“Em cũng mất hướng không thua gì anh… Đang không khác gì cô bé Alice lạc vào xứ thần tiên.”
Dứt khoát:
“Nhưng, cần gì! Có lộ là cứ đi!”
Lam chọn đoạn cong cánh cung, chừng rối rắm hơn cả. Cô nói, chúng mình đi không cần đến. Như vậy mới đúng với ý nghĩa của một cuộc phiêu lưu chứ. Túng quá thì cứ tìm người mà hỏi. Hẻm quanh quất này biết đâu đưa về Tiên Giới?
Độ trăm bước là nó chia tay luôn hai ngõ kia. Thế đất lấy lại độ phẳng, khô, và cao dần. Vẫn lạnh, và ẩm. Mùa thay áo của rừng. Dưới chân, dầy lá màu đu đủ chín và vỏ nâu; theo mỗi bước, rào rạo vỡ. Cây: cao, to, khỏe, thẳng bút, trong tróc nơi thân và cành. Đa phần là loài bạch hương, thân láng bóng, hồng hào, thẳng, lá móng tay, và dầy như khuynh diệp, thơm mùi dầu, mọc lúc thưa lúc dầy. Hương cũng tăng giảm theo độ khoan nhặt của cây. Sáng chiếu xuống do thế mà khi đậm khi lạt. Rừng vắng. Chim muông ríu rít, âm nhọn như các mũi đan thêu. Lam ngước cổ tìm, nhưng không thấy. Sữa xanh mượt mà. Rồi đến lúc nào đó chợt trắng về một chiều. Cây đồi tản về ba phương còn lại. Hướng thứ tư, trước mặt, khi chiếc chiếu đốm của cành vừa được cuộn lại, bứng lên hơi hướm của trời. Nắng bạc. Phản ảnh của nó từ trên hắt xuống tha thướt như ngọn thác nhỏ. Màu sắc không im lặng, mà thì thào: dải lụa nõn đang siết vào bụng đất. Nổi vân.
Lam chạy trào tới. Cô bụm tay quanh miệng ngăn tiếng kêu sửng sốt. Niềm vui bất ngờ giục đôi mắt mở to. Hơi thở dồn nghẹt; thái dương râm ran: phiến lụa như một loài bò sát biết bay trên các trứng sỏi trắng ngần: một thân nước. Lam giăng rộng hai tay như mở hai cánh. Khép dần lại, đáp ngang. Lần theo lối mòn, xuống. Có đoạn trượt, rơi cả giày, sướt cả da tay, rồi gượng lên. Ngồi, chỗ phẳng nhất, sát bụi thảo đang nở hoa và trái tím sim, nắm lá quét sơ một góc cho Huyên, vuốt lại xống áo, tháo giày, khỏa chân, khoắng. Cười, cúi, khoa tay, vọc, ngẩng, búng nước vào mặt, thổi phì phèo, liếm mép, thở phụ bằng mũi, nheo mắt, vẫy.
Suối chảy qua một trũng thấp. Lòng khá sâu, nhưng mực nước chỉ ăn tới nửa triền. Chịu khó vén quần và vài phút lội là có thể ung dung qua bờ đối diện. Nhìn sang, bên kia y hệt bản in của bên này. Cũng ngần ấy màu sắc và cũng bấy nhiêu không gian; và cả con đường mòn uốn rắn chạy theo. Cứ y như là có tấm kiếng nào dựng giữa. Tàn lá lục và bầu biếc trên cao hả hê ném cánh dù lên mặt nước. Đó là thứ màu khó phân giải. Bởi lẫn trong hai màu xanh kia, thi thoảng óng lên một màu khác nữa. Nó là hợp sắc của chính lớp cuội của luồng chảy và mặt trời lúc này đã bóp nóng trán.
Lam ngắm bóng cô soi dưới. Khổ mặt mạ non mà một vài lằn thủy ngân rùng mình khi bóng cây nhích rộng làm rách phấn lã chã. Trông cô lạ hẳn. Làn da nửa trắng nửa vàng. Là màu vỏ trứng của kem đắp mặt: cô đang hóa trang trên sân khấu.
Huyên đến, vuốt tóc cô, định ngồi xuống cạnh. Màu hoa khiến anh khựng người loạng choạng mất mấy giây.
Lam hơi hoảng:
“Kìa. Anh có sao không?”
Huyên xua tay:
“…Ồ, không… Chỉ tại hơi dốc thôi… Em xem: hoa thật đẹp! Cánh y như nhung. Nom thật sang cả.”
Lam mỉm cười:
“Quý phái là hẳn rồi. Bởi đó là hoa ‘Công Chúa’. Đài các vậy mà rất dễ trồng, anh à. Chỉ cần ngắt cành, ghim xuống đất là nó tự mọc rễ.”
Huyên muốn nói vài chữ để khen cô. Nhưng chỉ biết ậm ờ. Anh thụ động ngồi xuống theo chiều kéo của bàn tay Lam. Anh vô thức khoác nước lên mặt. Được ngay một chút tỉnh táo. Nó khiến anh bật lên xuýt xoa:
“Ui dà. Lạnh há!”
“Anh thua em rồi. Em chỉ thấy mát thôi. Thích ghê!” Lam cười vang.
Sóng xóa bóng hai người; sau đó ráp chúng lại, rung rinh, môi đùn vào nhau, nhúm nhó. Lam chỉ tay, rối rít:
“Anh nhìn kìa. Chúng mình… Ngộ thật!”
“Sao?” Huyên lớ ngớ.
“Anh chậm quá! Bây giờ chúng tan hết rồi!”, giọng tiếc rẻ.
“Nhưng cái gì mới được chứ? Anh không hiểu gì cả!”
[thật sự là tôi không hiểu gì hết. Thiên nhiên phù phép thế nào mà dưng không lại có cánh hoa này? Và màu tím này? Màu của nó chính là màu nền của khúc lụa thêu bông trắng mà tôi đã cùng Pha Lê phải lặn lội mãi khu vải vóc Chợ Lớn mới mua được để làm quà sinh nhật thứ 21 của cô. Bị xiêu lòng vì cái miệng giới thiệu dẻo kẹo của nàng bán quán, chúng tôi ghé luôn tiệm may gần đó. Và chúng tôi đã không thất vọng. Chiếc áo dài tím là nghệ phẩm tót vời của nghề kim chỉ, và Pha Lê, khi mặc vào, là kỳ công của tạo hóa. Và, nữa, tại sao suối bỗng nhiên nổi bọt? Còn ì ầm cả sấm? Phải. Tôi nghe rõ trong tai âm cao thấp của luồng nước kia mà. Hệt tiếng sóng biển. Tôi chưa biết biển trong thực tế của những ngày hớt hải kia là gì. Chỉ biết biển qua quyển truyện mà Pha Lê mua tặng: biển đã mang người yêu đến với người yêu. Biển đã chịu rạch bụng trả lại nàng Jennie cho chàng họa sĩ. Biển: lành lặn, và tan tác. Biển gào thét, nhưng mang sum họp. Sống, và chết, bên nhau. Hạnh phúc nào hơn? Còn biển của những ngày xa xưa? Tôi không biết. Chỉ Pha Lê, và những người chung chuyến hải hành của cô ấy là có. Hơn thế. Họ còn cọ xát, chung sống, hòa thuận, và tranh chấp, bao ngày đêm với nó nữa kia. Biển đa mang, đa chiều, đa diện. Nhưng tôi chỉ muốn biển là biển của hai nhân vật trong truyện. Sẽ cho câu trả lời. Và họ sẽ nhờ biển mang câu trả lời đến cho nhau. Nhưng, sao biển của những ngày cuối tháng ấy yên lặng quá! Nó như là một thứ biển ‘khác.’ Và những con người trên biển vào những ngày tháng đó sao yên lặng quá, như là những con người ‘khác’: họ đã bị muối khằn mất môi, không (thể) hé lộ gì cả với tôi. Tôi chờ tiếng nói từ họ, những người chưa quen, từ Pha Lê, quen đến từng phân ly da thịt và tâm hồn của tôi; từ cả nguyên nhân của sự mất tích của họ: biển. Nghĩ hoài đâm quẫn trí, tôi tự hỏi, hay bởi bây giờ họ đang ‘sống’ trong hành tinh khác, dùng loại ngôn từ khác, nên ngôn ngữ của họ cũng không giống, và không được hiểu, với thế giới của chúng tôi?]
Nhìn nét ngơ ngác đến hoang mang của Huyên, Lam hơi hụt lòng. Cô không đáp, cúi vốc một bụm nước ấp vào mắt. Cô không cảm nhận được độ lạnh trong câu nói của Huyên là thế nào. Nhưng cái buốt gắt bất ngờ từ nắm ngọc lỏng trong tay cô làm se sắt da mặt. Đôi môi cô mất hẳn máu, ríu lại, như tê dại.
Sóng lăn tăn. Đá sạn nhiều dưới đáy. Mức nước khá cao, và bề ngang đủ rộng cho việc thả thuyền. Suối trong lắm, bờ thật sạch, không gợn cỏ hay rong. Thế mà cô cứ muốn, như một câu thơ cũ nào của Huyên vương vấn mãi một vùng cao nguyên hoang đường đã mất: “tôi tắm, lăn mình ngủ với rêu.” (với tác giả nằm cạnh, dĩ nhiên).
Nước ưỡn qua khe tay nhào trở về lòng suối. Cơn buồn ngủ và cọng mơ mòng đã bị mớ tuyết tan ngắt đứt. Còn lại trên tay cô là một dư cảm tê tê chọc ghẹo của cái gì tưởng bắt được. Chỉ vậy thôi. Chỉ là vật trơn tuột, không tướng mạo, không mấu chốt để quắp vào. Đôi mắt Huyên tóe tròn bọt xốp. Y hệt đôi mắt ngút khói hồ nghi và thương cảm đêm qua khi anh vào trong pha và mang ra cho cô tách cà phê. Lần thứ nhất, cô tiếp thức uống này từ tay một người khác phái (không kể những lần ngồi quán, đương nhiên). Người đó, mấy phút trước, đã tan hòa, nhập làm một với cô. Lúc này, sao bỗng như bóng biển? Và dòng suối? Sao bỗng dưng như có vị mặn? Của biển? Một bãi biển hữu hạn? Và đang lên sóng? Sao suối bỗng là biển? Cô như đang buồn nôn. Cơn buồn nôn của những đêm lênh đênh; của một đêm trên đất bằng, thức giấc đã biến thành người khác, đổi tên gọi khác. Và tự dưng ứa nước mắt. Sao cảm giác buồn nôn tự động bắt cô nhớ lại cái đêm với bóng ma đó? Sao phút giây vừa qua, Huyên không chiếm không gian bé nhỏ nào trong ký ức của cô? Sao chiều dài của mấy phút trước đó phù du thế? Sao lúc nào anh cũng như chìm vào cơn sóng? Tuy tịnh, nhưng nó nhiều khi vẫn đủ mạnh ngắt cô đứt lìa khỏi anh. Hay anh là? Một mặt biển thu đọng vào phạm vi của một dòng suối? Phức tạp quá! Cầu trời cho đó chỉ là suy nghĩ vớ vẩn của mình.
Trái non trên cây tôi đã bị ham hố gặm, nham nhở. Thân thể tôi: thực sự là nó không khác trái sim đã bị chim ăn dở còn treo hờ trên cành, cọ sát má phải của tôi. (hình như nó biết nó và tôi có cùng cảnh ngộ.) Tôi đã cân nhắc bao nhiêu trước khi cho anh! Chưa trọn vẹn. Tôi biết. Nhưng cách hiến dâng và ý nghĩa của nó thì hoàn toàn. Tôi không dụ hoặc chính tôi khi tự minh xác điều này. Nó cũng thực như mùi thơm ngọt của phần trái đã bị cắn bớt, dầu đã nhạt đi nhiều theo mưa nắng. Tôi muốn gọi về, và chắc chắn sẽ không thất bại, cảm giác cứng tròn của hòn đá trần trụi nhặt từ dưới đất, đang được lăn trở trong tay, và sẽ được tôi ném thia lên mặt nước; và tôi sẽ cười lớn lên như những lúc nhìn thấy nó vèo sang được bờ bên kia để tự ám thị là mình đang vui. Chỉ tiếc là, so với ý nghĩa, trong thực tế, cái mà anh nhận được từ tôi đã mất tính cách của một khai mở thiêng liêng. Tôi biết rằng anh không mong chờ tiến trình hồi hộp ngay trước phút nhập cuộc, nhưng mặc nhận là một việc, mà nhìn nhận nó lại là việc khác. Tôi sẽ bớt cảm thấy phạm tội nếu anh tỏ ra bàng hoàng, bất nhẫn. Đàng này, ngược hẳn. Anh bình tĩnh đến lạ lùng. Đĩnh đạc như một nhà hiền triết, làm tôi muốn phát điên.
Nhưng rung động? Chẳng lẽ tôi không còn quyền lực nữa với nó sao? Tôi yêu Huyên, song luyến ái này cũng không giúp tôi đôi khi thoát khỏi ước muốn cần trốn lánh anh, trả anh về với cơn sóng vô âm. Huyên không thể vừa sống với tôi mà lại đồng thời kết giao với mộng mị. Nhưng rồi tôi nghĩ lại và tự trách. Tại sao kêu gọi điều nào đó từ anh, trong khi anh lại chẳng đặt bất cứ nghi vấn hay yêu sách gì với tôi? Đời tôi chẳng phải đã hơn một lần bắt đầu? Xuất điểm là đâu, tôi không cách nhớ lại. Có lẽ chỉ toàn mơ ước được thi vị hóa và nữ nhi hóa trên những trang nhật ký, những bài thơ ngan ngát phấn hương mà bất cứ cô thiếu nữ nào khi mớm chân vào ngưỡng cửa trung học đệ nhị cấp cũng nuôi nấng, vừa như một xung lực, vừa như một trang sức, một thời kiểu. Nếu cho đó là khởi điểm thì chao ôi, nó mỏng manh và dễ tổn hại làm sao! Nhưng nó cũng hết sức thuần hậu và dễ thương. Mình chưa nép được bao lâu trong chiếc lọng tơ hao ấy thì đã tàn nhẫn bị xô hất ra. Tuổi thơ; tuổi trẻ vương máu. Vết thương một lần, muôn thuở khó lợp da non. Huyên, liều thuốc xoa dịu, khi tìm thấy thì e đã muộn! Anh đoán là mình đang miễn cưỡng cưu mang nỗi niềm gì đó. Anh muốn mình cố gắng vượt qua cái mình ‘đã là’ nếu tâm thế vẫn còn chưa hết sượng sạo, tuy chưa biết thực chất của nó. Đầy thuyết phục. Nhưng thực hành?
Buổi dạo chơi bỗng nhạt nhẽo như mái tóc đã bay hết mùi dầu gội. Tuy không muốn, vẫn phải nghĩ đến việc quay về. Huyên lẩm bẩm trong miệng. Có lúc anh đọc ra vài con số. Tôi nghĩ Huyên đang ôn lại chi tiết từ mảnh giấy hướng dẫn du lịch lấy từ trên kệ quảng cáo khu tiếp tân khi rời phòng.
Chuyến hồi khách sạn lâu hơn lúc xuất, bởi có vài đoạn chúng tôi bị lạc, phải dừng lại hỏi đường. Tôi thở phào nhẹ nhõm khi nhìn thấy con phố quen thuộc có gốc cây gù lưng ngay giao lộ đưa về khách sạn. Tôi bảo, em khó chịu quá, chỉ muốn nằm nghỉ. Huyên ân cần, thế mà lúc nãy em cứ muốn con đường dài vô tận. Anh tạt lên phố trên mua cho em ít thuốc cảm. Có lẽ em chưa quen khí hậu vùng này. Hạt sơn lâm đây sơ khai, quyến rũ, thời tiết tuy ôn hòa, nhưng lạnh và ẩm hơn nhiều so với thành phố mình ở.
“Chưa quen khí hậu vùng này.” Có lẽ. Chúng tôi vốn quen nơi đầu sóng ngọn gió, với việc đi từ cực này sang cực khác, trong tình trạng luôn luôn động. Thị trấn đây thì tịnh quá, ngàn ngày như nhau. Lạ vậy đó chứ. Sống khổ quen rồi, khi sung sướng là đâm bệnh.
Còn một mình trong căn phòng hẹp, tôi nghĩ vẩn vơ, và nhớ Huyên quá! Tôi tựa hờ vào thành giường. Và cơn mệt đè lên hơi thở của tôi. Lúc nãy dậy muộn, gối chăn nhàu nhò chưa kịp sắp xếp. Thật mắc cỡ! Chẳng hiểu Huyên nghĩ thế nào về mình? Tôi nhìn quanh. Các vật dụng giống y căn phòng ấy. Luôn cách trang trí. Cả bức tranh tĩnh vật màu tương đối tươi ngay tâm bức tường trái; cả cánh cửa sổ cũng nằm bên trái sát giường với bản lề đã bị long rời, thõng thòng bất lực, bao năm rồi, vẫn chưa được thay. Không nghi ngờ gì: đây chính là căn phòng đó! Ồ! Tại sao bây giờ tôi mới phát giác? Có lẽ chiều qua, lúc đến nơi, phần mệt, lạnh, đói, phần vì đêm đầu tiên mất ngủ, người ngợm la đà, khi lấy phòng, bên ngoài, đêm sơn cước sập xuống nhanh, rồi phần nôn nao vì đêm nay là đêm mà tôi sẽ ‘tự thú’; tất cả những thứ đó khiến đôi mắt tôi bỏ sót những góc cạnh rất dễ nhận dạng kia? Hay là mình cứ mãi bị quắt quay vì biến cố đó?
Lồng ngực tôi bỗng như bị bóp ngang. Hơi thở nghẹn cứng. Sống lưng cong nhíu lại, đau đớn dường đang bị đâm kim. Rồi lạnh toát. Tuyến mồ hôi thảng thốt đang hình thành và nước giọt rịn rỉ từ đó. Bóng ma quá khứ đang đu nhảy trên cành cây hắt cuối phòng?
Tôi ngồi bật thẳng lên, ngốn ngấu hít khí vào, mở cửa, chạy ra chỉ với đôi vớ chân chưa tháo. Con lộ hành lang mờ và tẻ ngắt. Đêm xuống nhanh quá! Chiều chưa vui thú hết đã bị đuổi gạt đi. Bầu không nặng trĩu, sắp cho mưa. Cầu thang chưa thắp đèn, tối; tôi vấp té mấy lần. Phòng tiếp tân? Phòng tiếp tân? Nó ở nơi nào trên trái đất này? Trời ơi! Tôi phóng bừa về hướng mà đầu óc mụ mê của tôi chỉ dắt.
Thời gian và không gian cường tráng hơn bao giờ, như góp lực lại từ bao đêm cũ. Chúng nó đang đe nẹt tôi.
Cô thư ký, như muôn đời trước, và sẽ như muôn đời sau, là món vật tịnh, giống như cái mà cô đang gục tóc xuống. Tôi gõ bằng xương 3 ngón tay lên mặt gỗ. Mạnh, đau rát đến kêu lên. Tôi chồm vào, tay gõ, miệng gọi. Phải lần thứ bao nhiêu? Lúc mà tôi cảm tưởng các thớ cây đang nứt toạt theo cơn hoảng thúc của các ngón tay của tôi, cô mới ngẩng lên. Tôi thở bão vào câu hỏi:
“Cái anh Spanish nào đó còn làm việc ở đây không?”
Cô ngẩn người. Y như đang mơ ngủ bị dựng dậy.
Tôi lập lại, từng chữ:
“Cái.. anh.. Soprano.., vâng, đúng vậy, Soprano…là tên, vẫn lo việc.. nhận giặt, và ủi quần áo cho khách, cô nhớ không? Anh chàng ..trẻ, .. ốm, có mái tóc đen gợn sóng, lúc nào .. miệng cũng tình tứ… ‘Bésame, Bésame Mucho?..”
Cô lắc đầu. Mái tóc dài hất ra ngoài là sự dứt khoát của câu trả lời. Cái nhìn của chủ nhân của nó như muốn nói là tôi đang nằm mộng. Cái nhìn của con người chỉ gợi nơi người khác sự thương hại lại tràn đầy thương hại khi gửi cho tôi.
Tôi biết là mình không mơ. Tôi biết là đang ngồi điều hòa lại hơi thở trên giường, cơ thể rừng rực, máu huyết chạy loạn xạ, rời rã thất vọng dù cảm thấy trước là mọi việc sẽ không thể khác. Tôi biết, là, một phần, cái phần đáng lưu giữ nhất, đã là quá khứ. Anh chàng của quê hương đấu bò, ân nhân đầu tiên, mà kỷ niệm ngắn ngủi tuyệt vời với anh luôn là chiếc gậy đỡ chống tôi lên những lần tôi ngã quỵ, đã là cái của hôm qua.
Tôi chỉ không biết điều này: mọi cái, mọi người khác, rất thân yêu, đã đi. Chỉ mỗi tôi là đang trở về.
Hình như tôi linh cảm điều này thì phải, lúc mệt mỏi ngồi đợi Huyên lấy phòng?
Soprano! Soprano…! Đừng nhìn tôi thương xót như vậy! Tôi đã về. Nhưng tôi đã lớn. Đã khác. Anh biết điều đó mà.
Nỗi nhớ muộn màng, có mùi vị của xót xa, ân hận.
Nhưng còn bóng ma đó, lẽ ra phải là cái đã khuất?
Tôi đang thật sự cô đơn. Lẽ ra tôi nên chờ Huyên cùng về. Và căn phòng này khiến tôi bỗng dưng đâm cảnh giác trước sự tịch mịch toa rập của những ‘chiếc hộp’ cho thuê (giờ, ngày) tương tự. Mọi phòng trọ của 2 tầng tại đây đều cùng giá. Kiến trúc và bày biện của chúng hẳn cũng cùng khuôn mẫu, tôi đoán. ‘Khí hậu’ vùng này. Phải, cả cái ‘khí hậu’ của những hoang đảo, vật dụng đại loại, một lúc nào đó tôi tưởng đã quen, và đã yêu. Không yêu sao được khi tôi đang từ một vùng u mê bước ra vùng sáng mà trong ấy hình ảnh Huyên vững vàng, tuy trầm mặc, như một gốc thông, câm nín, nhưng đầy tin tưởng để dựa vào? Trong Huyên, tôi thấy cả một bầu biển dị kỳ, nhưng mời mọc kề cận, vuốt ve. Cả những giao động ngầm. Thôi nhé! Thà chết đuối dưới những đợt sóng anh (ôi! rát mặt quá khi nhớ lại ‘nửa đêm về sáng ướt đầm’ giữa hai chúng tôi!) hơn là nát nhầu với hối hận về một lầm lỗi tai ương.
“Chúng mình đều là nạn nhân của một tình huống. Trong mọi hành xử, liệu chúng ta đủ tỉnh táo và tự do? Có một lực siêu nhiên xen vào quyết định thay ta? Phải chăng vết thương từ một cuộc phiêu lưu ngoài lựa chọn vẫn còn hành hạ ta nhiều? Phải chăng nó đã trở nên một thứ ẩn thức cặm rễ trong từng suy tư và hoạt động của ta?”
Những lời đó, và những lời mà tôi cho là cần thiết khác nữa, đã được tôi chậm rãi trình bày với cô rạng sáng hôm ấy sau buổi chạng vạng chiều qua chúng tôi đến quán này. Lần đầu tiên gặp cô (đâu nhớ?, à!) trong sở làm, ngoài hành lang, mưa bụi bên ngoài, giờ giải lao sáng, chỉ với một hai câu chào và chẳng cần quan sát kỹ, tôi đã cảm thấy ngay rằng đây là mẫu người sống động nhất của cái gọi là ‘di vết chiến tranh.’ Lam đẹp lắm! Nói thế cũng như chưa nói gì cả. Đó là cái đẹp ta chỉ có thể cảm, khiến ta hoang mang không tin vào chính mắt mình và bỗng muốn lật lại, xét lại những khái niệm thường tình đã đinh ninh trên ngôi vị công thức. Nhưng, đẹp vẫn chưa phải là yếu tố độc nhất khua khoắng ngay nơi tôi sự chú ý. Cô gái ngơ ngác lạc lõng như vừa trở ra từ cơn mộng dữ; trong đôi mắt kia là nỗi hoàn hồn đến không biết có nên tin là bước chân thứ nhất của mình vừa đặt được lên làn ranh bên kia biên giới âm dương? Cô là chiếc lá tròng trành giữa bao nhân viên của sở. Hàng trăm chấn động do hàng mấy mươi con người kia tạo ra buộc cô phải đón nhận tất cả vào cơ thể quá trẻ trung diễm lệ, trong khi báu vật đáng ngưỡng mộ trong mắt người khác này lại được cô tiếp thụ cách rời rạc, hờ hững thế nào. Lam tự cô lập. Hầu như chẳng tiếp xúc ai. Một vài buổi họp mặt thân hữu của phân bộ đều vắng cô. Tôi đoan chắc không phải cô cam tâm vui hưởng tiểu giới tự nội và khắc kỷ kia. Tuổi trẻ khó cho phép họ dựng xây hạnh phúc đơn thuần thế được. Hẳn có lý do. Ngay cái lý do đầu tiên của mọi lý do: sự có mặt của một cánh hoa giữa vùng thép đá này?
“Xin lỗi. Tôi có làm phiền cô?”
Cô gái giật mình. Vì giọng nói của người lạ vỗ nứt khối tập trung, hay vì người hỏi lại dùng thứ ngôn ngữ quen thương thuở nào? Cô ngẩng lên. Tôi đứng đó; có lẽ chói vì nồi nước trời đang bốc hơi trên song cửa ngoài phản chiếu nơi khung kiếng phía sau tôi mà cô nhắm chặt mắt đến mấy lần? Cô ấp úng chưa sẵn phản ứng thì tôi tiếp:
“Tôi không tin mình lầm khi căn cứ vào tên họ của cô mà bảo cô là người Việt. Cô vui lòng giảng lại giúp tôi cái công thức Excel này được chứ? Thừa hưởng bản báo cáo tam cá nguyệt mà chàng nào vừa thôi việc bỏ dở, quả là ‘gia tài’ khốn khổ!”
Thế là hai đứa quen nhau. Trong công ty, chỉ cô và tôi là người Á châu. Nên, việc làm quen thuận tiện hơn. Thuở ấy, tôi mới sang Mỹ được ba tháng. Người bạn bảo trợ lo ăn ở luôn cho. Bằng lái thi kỳ một chưa xong, nên anh ta lại gánh thêm tội phải đưa rước mỗi lúc tôi phải rời nhà. (đa số lần, tôi di chuyển bằng xe bus.) Cũng may, vừa gửi đơn xin việc là được thuận ngay. Thị trấn nhỏ, cổ, nửa lãnh thổ là đất bán sa mạc, khí hậu khắc nghiệt, dân cư thưa thớt (người trung và cao niên chiếm tỉ lệ lớn), cần cù, hiếu khách, sống nhờ nông nghiệp, chăn nuôi, vẫn đủ lương thực và thức ăn, mức sống rất rẻ. Do đó, lương hướng dầu ít vẫn giúp tôi đóng góp vào sinh hoạt chung. Công ty vừa, ngót hơn nửa trăm nhân viên, và mọi người đều nhã nhặn. Không khí làm việc khá thoải mái. Nhiệm vụ hằng ngày thì rất đơn giản, chẳng cần khả năng chuyên môn. Chỉ sao chụp và chuyển công văn trong phạm vi các phân bộ. Việc soát lại phần thu chi trong 3 tháng đầu năm là ‘món quà’ bất thường. Nó vẫn do một chàng thư ký người Ý phụ trách. Anh đã vớ được chức vụ khác khá hơn, nơi thành phố lớn. Lão tổ trưởng biết tôi đang theo khóa quản trị kinh doanh cấp tốc, không bận bịu lắm, nên nhờ xem lại. Báo cáo chưa cần gửi đi. Ông ta bảo, cứ thử. Được thì tốt; không thì đành nhờ người khác.
Lam nhận tập dượt lái cho tôi mỗi ngày 30 phút sau khi tan sở và vào những giờ cuối tuần bằng chiếc xe Honda cũ, nhưng tươm tất, của cô. Có lẽ vì thế mà tôi tiến bộ hơn, tự tin hơn (chiếc xe của người bạn là loại thể thao, khó sang số; thắng chân lại quá cứng, ghế quá thấp, khiến tôi bất an ngay khi vừa ngồi vào) và đã thoát trong kỳ thực hành lần hai. Có license rồi, từ đó, vai trò đổi ngược: tôi giữ nhiệm vụ tài xế mỗi lần đi với cô. Tằn tiện, mấy tháng sau, tôi cũng làm chủ được một chiếc, dù nhàu nhò, nhưng khá hơn chiếc của ông bạn. Tôi nhẹ nhõm lắm, giờ thì không còn phiền ai. (Chỉ buồn là, ngày tôi ‘tốt nghiệp’ cũng là ngày ông bạn tôi phải chuyển sang tiểu bang khác theo đòi hỏi của công việc.)
Tình yêu đến như không thể không. Con tim tôi trống trải quá! Kỷ niệm tang tóc ngày nào nhìn đất nước cùng người yêu theo nhau sụp đổ còn mới tinh. Chuỗi năm tù tội rạc rời. Nó cướp mất của tôi thời khoảng sung sức nhất. Song nó là giá chuộc cho cuộc du hành qua miền đất ước mơ này. Cuộc sống bây giờ đã khác. Khác, không những vì tên gọi cho không gian mà nó mở ra hay thời gian mà nó tựa vào, hay từ tâm tư của trăm vạn cá nhân mà nó nhận hình tướng, mà khác luôn ở các mối giao tiếp, suy tưởng nơi những con người đồng hương ấy, nhưng dong mạo nhìn ở bên đây sao có vẻ vừa quen vừa lạ quá đỗi! Mỗi đóa Việt Nam đã cố gắng bằng sức mình vươn cao trên một vùng bát ngát, nẩy những cánh, những gân, những đài đẹp đẽ; nhưng trong, và giữa các thứ ấy, vẫn tồn tại một cái gì đó ‘tổng quát đặc thù’, cái làm cho họ như đứng ngoài – dầu một số không muốn – với trào đời chung quanh. Không dễ gì chối bỏ cội rễ, quá khứ, về ngoại diện, lẫn nội tâm. Nó là lớp nước sơn vĩnh thọ, như thời gian. Ở Lam, điều ấy được tôi nhận rõ hơn nơi ai khác. Bắt mạch, từ ánh nhìn chấp chới của người từng đánh mất điểm tựa, đến những nhếch cười hờ hững, những câu hỏi chào ngắn, lạnh, rất không thích hợp với tuổi tác và chức vụ luôn phải tiếp xúc với người. Mà tại sao mình lại bị hút vào những khoảng hụt trống nơi cô như vậy? Vì bất nhẫn trước nụ non nớt hồn nhiên ẩn sau gốc già cỗi giả tạo? Hay bởi giữa 2 đứa đã sẵn nhu cầu tìm đến nhau? Dầu sao thì chúng tôi không còn là hai ngả đường riêng rẽ. Dòng đời đã nối kết chúng.
*
Chiều thứ sáu, cuối tuần. Thị trấn quạnh quẽ cũng chẳng vì thế mà ấm áp lên chút ít. Đêm rồi, đêm thứ nhất, ít ngủ (không phải vì hai đứa lang thang ngoài phố đến mãi gần sáng, rụng rời cả chân; mà có lẽ vì chung giường, đứa nào cũng thấy kém tự nhiên), song không thấy mệt. Lâu rồi mới được kỳ phép. Tâm niệm: phải tận hưởng, với sung mãn thể lực, và lợi dụng nó để bồi bổ thể lực cho thời gian tới. Tôi chỉ vừa tái sinh, vừa đi lại được. Bài tập chỉ mới. Cần làm quen. Mỗi ngày.
Lam rủ tôi đến nơi nào có nước. Tôi thích núi hơn. Nhưng, với Lam, trước đôi mắt kia, sao có thể từ chối? Biển, với tôi, là câu hỏi chưa tìm ra giải tự. Là sâu thẳm nhất của mọi sâu thẳm. Là mầu nhiệm nhất của mọi mầu nhiệm. Trước biển, tôi như ván nổi. Bị lôi kéo về nó, lênh đênh trên nó, trong u mê trực giác rằng, tôi sẽ được bị hạnh phúc đọa đày, nếu muốn thâm nhập vào đó.
Và theo dự tính, sáng nay, chúng tôi sẽ vượt hơn 60 phút nữa để ra biển. Biển sẽ là, theo Lam, biển ‘phần hai’, mở rộng thêm một khúc bãi xanh mà chúng tôi nhìn thấy một góc trên đường đến đây. Ngày mai, ngày cuối, chúng tôi sẽ để xe tại khách sạn, đi bộ thăm ‘phần kết’, và cũng là phần bao quát nhất, nơi khai sinh, của biển.
Phút sửa soạn và suốt lộ trình, mọi việc dàn tiến thật tốt đẹp. Đường xá không còn bị cắt bẻ bất ngờ. Nó êm ái như khúc dịu dàng nhất của một bài nhạc gập ghềnh. Tâm hồn thơ thới, và chứng nhức đầu của tôi nhẹ dần.
Khi đến, nhất là khi và lấy phòng, Lam có vẻ khang khác. Tôi cho là cô bị kích thích vì trò dã ngoại nên cũng chẳng lấy thế làm điều.
Nắng lạnh. Thị trấn trung cổ này không tận tình dùng mặt trời như một món trang sức. Trong bản đồ, nó nằm lưng chừng hướng đông vùng ngụ cư của chúng tôi. Nó đã thoát được vòng kiềm tỏa của sa mạc, và được mệnh danh là thành phố của sương và mưa. Nắng chỉ như gia vị, rất vừa vặn, làm tăng thêm giá trị của món ăn. Nhưng không bao giờ có tuyết như các bạn bè của nó ở cực đông chỉ lái xe thêm gần một giờ.
Thật khuya, vào giờ phút chỉ thích hợp cho giấc ngủ và chỉ cho giấc ngủ, Lam bảo cô muốn uống cà phê. Điều này khá lạ. Không vì cô muốn một thứ mà chính cô đã từ lâu hiếm khi đụng đến, hay vì thời điểm ít thích hợp như vậy. Lạ, là bởi trong cách đòi hỏi ở cô có vẻ gì thê thiết trầm trọng sao ấy. Mắt cô như lạc thần; và hơi thở bị gối lên nhau từng cuộn như mây. Cô như đang phân đôi. Ai đó ‘trong’ cô đã yêu cầu thay cho cô. Vách phòng quây bằng các súc gỗ to, sần sùi, ấm lắm, thêm vào cái ấm tăng cường từ dàn sưởi trung tâm, nhiệt độ phòng khá tuyệt vời. Thế mà cơ thể đang nép vào tôi của cô run lên. Cách cô uống cũng phản ảnh một tranh chấp nào từ trong. Cô hớp từng ngụm nhỏ, ngậm thật lâu trong miệng; càng lâu thì bờ môi dưới của cô càng như bị thấm cà phê, tái hơn; rồi trong lúc chưa kịp nuốt ngụm thứ nhất, cô chiêu ngụm tiếp. Có lúc tôi tưởng cô sẽ sặc. Nhưng không. Cô ực được nó vào và ôi chao, khuôn mặt cô chẳng khác gì hạt lựu lỏng, chảy nhùn, thun dần, để rốt lại, chỉ còn đôi mắt (chính đôi mắt đã rót rượu vào máu tôi lần đầu trông thấy cô). Chúng sâu và rộng hơn cả đất trời mà trong ấy nhào nháo cơ man là cuồng phong. Cô nghẹn ngào ực nốt ngụm trong miệng, ôm choàng lấy tôi và hôn tôi thật dữ dội. Lam không còn là cô gái khép trong vỏ sò bưng bít. Cử chỉ gây hấn lạ lùng kia khiến tôi sợ. Cô như đồng bóng, mắt nhắm nghịt, ngước lên chờ nghe chỉ thị nào từ trên. Đây là hiện thân của chứng bạo tình hay trạng thái vẹo vọ tâm sinh lý mà tôi đã biết qua sách vở, và chẳng xa xỉ gì trong những xã hội phát triển vượt mức? Vị cà phê tôi nhận đủ trên môi cô. Đôi môi hả sốt, thơm, đắng, sệt như màu nước uống trong tách, như màu son ma mị trong các phim khai thác đề tài về thế giới bên kia. Chúng đổ hắc ín lên một phần ý thức của tôi. Đến lúc nào nữa thì…? Nụ hôn đang nóng khô chợt ướt đẫm. Vị đắng ngọt đã chuyển mặn nơi đầu lưỡi. Cô khóc. Ấm ức. Những giọt tưới nguội màu u ám của ấn tượng. Nước mắt trả lại tôi một Lam ngày mới quen. Mớ bụi lầm than của huyễn ảnh bị đổ nhào dưới cơn mưa. Xin cảm ơn cơn mưa tẩy trần! Còn khóc được là còn lối ra. Cô bảo cô yêu tôi, sợ mất tôi, xin tôi tha thứ, xin tôi hãy giúp xóa mờ cái gọi là dĩ vãng, một dĩ vãng bị lỗi lầm làm cho biến dạng, dầu lỗi lầm ấy không xuất từ cô. “Em không muốn tự biện hộ cho hành động kia của mình. Điều em sắp nói đây, phản ứng nơi anh khi nghe xong, dầu bất lợi thế nào cho em, em chấp nhận. Chỉ xin anh một điều là, đừng đánh đồng nguyên nhân của nó với bất cứ nguyên nhân trong các câu chuyện của bất kỳ ai.”
*
Chắc chắn cô đã chi tiêu rất hợp lý kho nước mắt của mình cho câu chuyện cô kể. Chắc chắn cô đã dành dụm mọi thứ từ bao lâu nay cho chỉ đêm ấy, với người nghe là tôi. Dành dụm từ những ý thật vừa phải, những dụng ngữ cố chọn lọc sao để tôi không nghĩ là ngụy biện, tự bào chữa; từ những dấu ngắt, tiếp đoạn, âm điệu… Bình tĩnh như thế quả là đau lòng, cho cô, lẫn cho tôi! Nhất là sau nụ hôn ‘cưỡng chiếm’ mở đầu. Nó là điểm đến sau những bước giẫm thản nhiên tàn nhẫn trên mảnh chai vụn. Nước mắt có công dụng làm trơn tình tiết. Nhưng nó không làm lầy lội lối đi. Tôi không ngắt lấy một lần lưu lượng của nước và lời. Bởi tôi nghĩ, cái cần giải tỏa thì không nên cấm đoán. Giữ nó trong lòng chẳng khác lưu độc trong máu. Ít ra phải có một lần. Rồi sẽ chẳng bao giờ nữa, tôi mong là thế. Và ít ra phải có một lần. Một lần chúng tôi yêu nhau không những chỉ bằng môi, ánh mắt, hay bằng ngôn ngữ mà có lần xưa kia, vì ngượng ngùng, giữa tôi và Pha Lê, chúng tôi phải gọi trớ César hay Cléopâtre hoặc bé thay cho anh và em, hay cả một vài dọ dẫm nhút nhát thân thể nhau. Chúng tôi đã tiến xa hơn, đến giới hạn chí tử của trạng thái và hình thái mà những người yêu nhau gọi là thể nhập vào nhau, dùng tự hữu – cái sở hữu khiếm khuyết và cần tu bổ – để đắc thắng hãnh diện chiếm dụng sở hữu của đối tượng; chiếm dụng trước tiên, rồi sau cùng trả lại cho đối tượng sở hữu của nó cộng thêm sở hữu của chính mình. Tự chính bản thân, chúng tôi đi đến nhau, phanh phui trước nhau những góc cạnh bí ẩn tinh vi nhất của hiện thể và tâm hồn mỗi đứa. Xấu hổ bất lực không ở chỗ khi phải đối diện nhau trong từng phần chi li như vậy, mà ở chỗ không biết làm thế nào cho đứa kia nhìn thấy và đón nhận trọn vẹn phần mình muốn ban tặng. Không hẹn trước, mà cũng chưa từng nghĩ đến, tác động cố rướn mình lên cao, to mãi, dài thêm, để đối phương dễ dàng bám níu, và cũng để thống lĩnh đối phương hoàn toàn hơn của đứa này chỉ là sự lập lại với từng ly khít khao hành động của đứa kia. Chúng tôi đã thực hiện hoàn hảo vai trò được giao phó trong một vở kịch tùy hứng mà lớp lang. Chưa bao giờ ngôn ngữ bị hững hờ đến thế. Chưa bao giờ nỗi yên lặng được trân quý đến thế. Mọi ý niệm khác trở thành vô nghĩa. Hai hữu thể tương đối mắc vào nhau, làm nên một tuyệt đối. Cái tầm thường đã biến thành siêu thường, cao quý, hiển linh. Cảm giác quá đau đớn, choáng váng, ngất ngây, ngỡ ngàng, kỳ bí, lâng lâng: da thịt hiển linh! Tôi nói với Lam như vậy. Như tôi đã có lần nói với một người, sau đêm hai đứa ‘tự khám phá và khám phá nhau’, đại để, như vậy. Cảm giác hôm nay, mặt nào đó, còn mạnh hơn cảm giác mà tôi có lúc xưa, bởi tôi không ngờ thứ ‘hạnh phúc tự nội’, cách chọn lựa ‘tự quây quần trong chính mình’ của cô lại là quả kết từ một biến cố gây sững sờ đến thế. Tôi nói thế và không phỉnh gạt ai hết, từ người tình ‘cũ’ Pha Lê Văn Khoa Cường Để mà cuộc sống chết hiện giờ luôn còn là một thai đố, mà chuyến thuyền cô ấy và trăm người khác ngồi trên chỉ là ảo giác, mà từng độ sóng lớn sóng nhỏ mà từng ấy số phận đang đương đầu chỉ là màn tung hứng nghịch ngợm của ngọn bút vẽ của số mệnh; mà, biển, được cô mặn mà y như sở thích của Lam hiện tại, từ ngày quen và yêu cô, với tôi, thân thiết và trong tay nắm như quyển truyện cô ấy mua tặng; là biển, từ buổi chiều cô ấy bỏ đi, đã lạnh lùng xa cách nhưng lại là một bí ẩn cấu cào mời gọi ngọt ngào gắt gỏng; đến người yêu ‘mới’ Ngọc Lam Trưởng Phòng Điều Hành đang lặn rút trong vòng tay; cả tôi, người vừa se lại sợi dây cười nói linh hoạt. Với Pha Lê, tình yêu là mái lều che chở tôi, là nguyện đường mà khi vào đó, trở ra, con người sa đọa của tôi trở nên lương thiện. Với Pha Lê, tình yêu của cô ấy mặc vào mọi tên gọi khả dĩ: tình trai gái, tình anh chị em, tình bạn hữu, tình mẹ con, tình văn nghệ, tình giao phối. Pha Lê là bóng mát, và tôi, kẻ đang trốn mặt trời. Pha Lê là súc vải lụa mà màu tím tôi yêu may mắn tìm được nơi nương náu. Với Lam, tình yêu không đa diện như vậy: nó chỉ đi quá dung mạo của tình yêu trai gái một chút, và cạnh sắc của dung mạo thứ hai cũng mang ý vị khác, đảo ngược: tình yêu, người yêu, là mái lều mà cô tìm vào ẩn tựa, là bóng râm xoa dịu. Cô sẽ, tôi hy vọng, cũng như tôi đã từng, với Pha Lê: khi vào đó, trở ra, con người thương tích bi quan của cô sẽ trở nên lạc quan lành lặn.
Tôi đứng giữa để điều phối việc nhận về và gửi đi.
Lam tựa vào tôi, cúi xuống tôi, không trả lời. Trong mắt cô (biển nào sâu và huyền bí bằng?), tôi đã tìm được cái muốn tìm. Thân xác đã làm tròn chức năng của nó: hóa giải, hàn gắn chông chênh.
Nhưng còn đáp ngôn từ biển của ngày hôm qua – biển của Pha Lê và trăm nghìn người khác của ngày hôm qua? – tôi vẫn chưa biết. Tôi muốn xem câu trả lời đã định hình trong giây phút sinh tạo cái bất diệt kia mà quá trình còn đang để lại từng cơn hậu chấn vời vợi trong mỗi thứ làm nên mỗi chúng tôi đây là phần đất lấn biển, là con đường mới đắp đưa tôi xuống tận đáy sâu huyền hoặc đó mà nhận đáp số cho bài toán xưa. Có thế, cái vừa biết cười nói cảm giác lại mới rũ bỏ hết tính mong manh, vật vờ.
* *
Tôi sẽ vào ngay phòng tắm, tự thưởng cho mình một chầu bông sen, chỉ mở vòi lạnh, thử xem nước có băng giá bằng vốc nước suối mà tôi đã ủ lên mặt, có se thắt nhu hòa như thời tiết mấy ngày vừa qua không. Sau đó, tôi sẽ pha một tách cà phê thật đậm, nóng thụt lưỡi, và quăng mình lên giường, với đàng hoàng kín mít y trang (tôi linh cảm, vũ trụ đang chờ tôi bước vào sẽ vô cùng trong sáng, linh thiêng, nên đành tạm nhịn cái thói quen ‘nhẹ nhõm’ khi đọc sách chờ giấc ngủ – cái thói quen, bình thường, với tôi, không mang, hoặc bất cần ai gán cho, ý nghĩa phàm tục nào, nhưng lần này tự dưng tôi cảm thấy như ‘phạm thượng’), nhơi hết quyển truyện (khá mỏng) mà Huyên đưa cho lúc chào và cảm ơn tôi về chuyến du ngoạn. Tôi phải đọc, đọc, để hiểu tại sao Huyên lại cho đó là cái mà anh chọn để gối đầu. Tôi phải đọc, kỳ hết, đọc đi đọc lại, bao nhiêu lần thì không biết (dù sao tôi vẫn còn 3 ngày nghỉ chưa tiêu pha hết mà), hy vọng qua đó sẽ hiểu thêm về anh. Tôi chỉ mới biết anh ở phần ‘da thịt’, từ một tiết lộ ngắn gọn của anh là, người thân yêu nhất của anh đang bị biển ‘giam cầm’. Còn sự thể đầy đủ thế nào, sau đêm ‘sáp nhập’ vừa qua, tôi nghĩ, anh sẽ không cần phải giữ kín với tôi nữa. Anh đã là vịnh biển của tôi; và với nguồn nước không còn lên sóng dữ đó, tôi có thể cùng anh thả thuyền xuôi ngược, có thể an tâm mà vớt gọn vào tay. Anh đã là bến ngừng của tôi. Nhưng đến rồi không có nghĩa là chấm dứt khám phá..
(*) ROBERT NATHAN (1894-1985), sinh tại thành phố New York. Là tác giả của hơn 50 tác phẩm, gồm tiểu thuyết, thơ, và kịch.
‘Portrait of Jennie’ xuất bản năm 1940; và năm 1948 được quay thành phim với Jennifer Jones trong vai Jennie.
Tại Việt Nam, sách đã được Hoàng Ưng và Trần Phong Giao dịch với tựa ‘Chân dung nàng thơ’; nhà xuất bản Văn, Sàigòn, 1966.
Nguyễn-hòa-Trước
2000* 2014
Đã xem 508 lần, 2 lần xem hôm nay.
Recent Comments