https://www.designerds.be/slot-bonus/

https://greenwichvillagevabeach.com/slot-bonus/

https://junex.com/slot-bonus-100/

https://thefranklinjohnstongroup.com/slot-deposit-pulsa/

https://socialbalance.be/slot-deposit-dana/

https://www.delakkerij.be/slot-nexus/

https://lobsterbaylombok.com/slot-deposit-pulsa/

https://hort.hdut.edu.tw/wp-includes/slot-nexus/

https://boogoomusicfest.com

https://thesummerhouseapts.com/wp-content/slot-nexus-engine/

https://spaziosicurezzaweb.com/slot-deposit-pulsa/

https://namaaestetic.com/wp-content/slot-nexus-engine/

Đăng nhập quanvan.net để đăng bài và bình luận trên DIỄN ĐÀN QUÁN VĂN.


Categories

Groups

BÀI TRÊN DIỄN ĐÀN

TRUMP KHUẤT BÓNGVĨNH VIỄN! MỸ QUỐC LUÔN LUÔN TRONG SẠCH!
TRUMP HAS GONE FOREVER! AMERICA IS ALWAYS CLEAN!
Đa số công dân Mỹ đã nhận thấy Trump không quan tâm đến các vấn đề của Công Chúng Mỹ; ngược lại, Trump rất quan tâm đến các Vấn Đề Cá Nhân Của Trump nhiều hơn. Và đặc điểm này của Trump không là một Uy Lực…Read more

TRUMP ĐÃ TỰ ÂN XÁ CHO CHÍNH TRUMP
Rõ ràng Trump đã nói “TAO CÓ QUYỀN TUYỆT ĐỐI ĐỂ TỰ ÂN XÁ – I HAVE THE ABSOLUTE RIGHT TO PARDON MYSELF.”
Và Trump đã lo ngại rằng Bộ Tư Pháp của Chính Quyền Biden có thể điều tra gia đình Trump về các tội hình sự liên bang. Đối tượng sẽ bị truy tố kết án có thể là các con lớn của T…Read more

HIỆN TÌNH THỊ TRƯỜNG BẤT ĐỘNG SẢN Ở HOA LỤC VÀ VIỆT NAM RẤT BI ĐÁT!
Trên thực tế Guồng Máy Tổng Thể Việt Cộng là một Bản Sao Rất Hoàn Chỉnh Của Guồng Máy Tổng Thể Tàu Cộng. Mọi tổ chức, ban ngành chính quyền và tổ chức, ban ngành đảng của Việt Cộng từ trung ương thượng tầng xuống cơ sở hạ tâ…Read more

TU CHÍNH ÁN THỨ 14, KHOẢN 3 NGĂN CẤM TRUMP CHỨC VỤ TỔNG THỐNG MỸ!
THE 14TH AMENDMENT, SECTION 3 PREVENTS TRUMP FROM BEING THE POTUS!
Trên thực tế, Trump đã chủ mưu và thực hiện một cuộc Đảo Chính Lật Đổ Chính Phủ Mỹ. TRUMP đã Tấn Công Quốc Hội Liên Bang Mỹ! TRUMP đã Tấn Công Vào Nền Dân Chủ Mỹ Quốc! Căn c…Read more

Tiếng trống biên khu. 2
*
**
Hãy đi lên, hỡi người dân Việt
Đây Nam Quan đứng vững giữa trời.
Đường ranh giới ngàn xưa đã vạch,
Đất Bắc Nam ngăn cách lằn ranh.

Nhớ hôm xưa Phi Khanh biệt quốc
Đã qua đây gởi lại sơn hà,
Lời nhắn bảo từ xưa còn đó,
Hận vong quốc ta phải khắc ghi:

Năm mươi năm sao vàng cờ đỏ,
Năm mươi…Read more

Recently Active Members

Profile picture of Nguyễn Tuấn
Profile picture of qop

Help tiinz to grow!

$5.00

Community

  • Cela Digital Solution
  • dfyplrproducts
  • huynhbatueduong
  • Sebastian
  • Ruth Colby
  • loganpaulreview
  • martiphypro
  • Cute Pets Blog
  • yogainfo2020
  • Sebastian
  • Châu Hoàng
  • Vanle
  • BestofPanda
  • Pick Me Up Poetry. Making poetry a conversation.
  • viet anh dt
  • Sebastian
  • mstboulevardier
  • Hoàng Dũng
  • cloud_52
  • chasbarclay
  • Miyoshi
  • bestwriterblogger
  • Sebastian
  • Dr. Joseph Suglia
  • Sebastian
  • Toànphong
  • Phan nhật bắc
  • Laronda Cole
  • lophi0505
  • lyn
  • Thang nguyen ngoc
  • Nguyễn Tuấn
  • Đậu que Ohtra
  • Lê Diễm Diễm
  • Dragon Queen
  • Meina Ibr
  • FARHEEN DHANJAL
  • Tony Nguyễn
  • Dragon Queen
  • trafficsoftware01
  • Celia Hales
  • mystoryxiu
  • Inner Peace
  • Anh phan
  • Trần Đông Phong
  • Dragon Queen
  • MinhAnh
  • Phan văn Hai
  • Sebastián
  • Andie Untamed✨

Advertisement

Subscribe to Blog via Email

Enter your email address to subscribe to this blog and receive notifications of new posts by email.

Join 106 other subscribers

LOẠT BÀI NHÌN LẠI HÌNH ẢNH PHỤ NỮ MỸ GỐC Á TRƯỚC THẾ KỶ 21

loader-image

LOẠT BÀI NHÌN LẠI HÌNH ẢNH PHỤ NỮ MỸ GỐC Á TRƯỚC THẾ KỶ 21

Bài 1:

Tôi đi dự thi nhạc kịch Miss Saigon ở Nữu Ước, năm  1989

Trước đây, khoảng năm 1989, tôi có viết một bài về hình ảnh phụ nữ gốc Á trong văn học nghệ thuật Mỹ của thế kỷ 20, sau khi dự thi cuộc tuyển lựa diễn viên cho vở nhạc kịch “Miss Saigon” ra mắt lần đầu ở thành phố New York.

Trong cuộc thi tuyển bán kết “cattle call” ở Broadway, không có ai là Việt Nam thực sự, ngoài tôi. Ở cuộc tuyển lựa, Cameron Mackintosh, lúc đó còn rất trẻ, hỏi tôi tại sao một luật sư lại muốn…đi hát kiểu này. Tôi trả lời, đó là vì … Giọt Mưa Trên Lá!!! Tôi đi dự thi Miss Saigon trong khi chưa có sự đào luyện đúng nghĩa về sân khấu thanh nhạc, bằng cách hát bài Giọt Mưa Trên Lá của Phạm Duy, pha trộn lời Việt với lời Anh, theo lời đề nghị của bác Nguyễn Túc ở Virginia và giáo sư âm nhạc Elizabeth Verenios của đại học American và Catholic, vùng Hoa Thịnh Ðốn. Tôi phải xin nghỉ làm ngày thứ Sáu để lên Nữu Ước dự thi.  Ngày thi thì tôi lại mất giọng vì bị cảm, chắc là vì quá mệt. Trước khi hát, tôi giới thiệu bản nhạc như sau:

Mưa là nước mắt của Trời, mà Lá là từ trái tim của Ðất, Khi Mưa gặp Lá, thì đó mới là tiếng lòng của cô em bé nhỏ, Miss Saigon.  Nếu quý vị đem cô em bé nhỏ của Saigon lên sân khấu Hoa Kỳ, thì xin nghĩ đến nước mắt của Trời và trái tim của Ðất. Rain is the tears from Heaven, and Leaves are part of the heart of Earth. When Rain meets Leaves, there lies the voice of Miss Saigon.  If you put on a stage production for the little woman from Saigon, please think of the tears from Heaven and the heart of Earth.     

Lúc đó, tôi vừa rời công việc ở tổ hợp luật Washington DC., Wilmer Cutler & Pickering, để trở thành luật sư tố tụng Cấp Một cho cơ quan liên bang giám sát thị trường chứng khoán Hoa Kỳ (SEC). Cha mẹ tôi bay từ Texas đến Washington trong thời điểm phiên xử đầu tiên tôi phải xuất hiện ở tòa án để đại diện SEC nhằm truy tố và phạt các chuyên viên kiểm tra kế toán, tranh biện với đội ngũ bào chữa gồm thành viên cao cấp của tổ hợp Arnold & Porter ở thủ đô Hoa Thịnh Ðốn. Ðầu não đội ngũ bào chữa cho các kế toán viên là một luật sư lão thành trước kia là thành viên trẻ nhất của đội ngũ truy tố Tổng Thống Nixon trong vụ Watergate. Vậy mà bây giờ ông ta lại phải tranh biện với “con bé Việt Nam vô danh tiểu tốt” là…tôi!  Phiên tòa này đem đến tôi kết quả tôi được SEC tăng thưởng lên chức vị tố tụng đặc biệt (Special Trial Attorney), Cấp Ba, ngay năm đầu tiên tôi làm việc cho chính quyền liên bang Hoa Kỳ.

Nhưng ngay sau đó thì vùng Ðông Bắc xôn xao với sự xuất hiện của nhạc kịch Miss Saigon, thực hiện bởi đội ngũ đã thành công rực rỡ với vở Les Miserables, dựa trên tiểu thuyết nhân bản của văn hào Victor Hugo mà tôi coi như thần tượng!!!  Qua năm thứ ba làm việc cho chính phủ liên bang,  sau khi hỏi ý kiến luật sư lão thành Paul Gonson, đại diện cho SEC trước Tối Cao Pháp Viện Hoa Kỳ (Solicitor General), và cũng là một nghệ sĩ nhảy “tap dancing” rất tuyệt vời mà công chúng bên ngoài SEC chưa chắc đã biết, tôi nghe lời ông, quyết định xin nghỉ gia hạn không lương, để theo học nhạc kịch tại viện kịch nghệ Hoa Kỳ (American Academy of Dramatic Arts), và từ đó tôi có cơ hội trở thành người học vai chính vở “Cô Gái Sài-Gòn,” một loại diễn viên… đàm thụ!)

Tôi viết bài ấy, trong thời điểm ấy, khi tôi còn trẻ và phải chọn lựa những gì mình thích cho cuộc đời, không người hướng dẫn, ngoại trừ luật sư Paul Gonson khi ông và tôi ngồi chung chuyến tàu subway từ văn phòng SEC đi về Northern Virginia một buổi tối đầu Hè năm 1991. Cha mẹ tôi, những nhà giáo tỵ nạn, với lòng yêu thương con gái tuyệt đối, không hề có ý kiến gì trên những chặng đường tôi đi qua, mà chỉ hỗ trợ bằng những cử chỉ ân cần nhỏ nhoi nhưng với tất cả nỗ lực của trái tim cha mẹ, khi cần thiết. Sau cuộc thử nghiệm với sân khấu ở Mỹ, tôi không trở lại SEC để tiếp tục nghề nghiệp của mình với chính phủ liên bang, một quyết định mà cho đến giờ,  tôi thật sự hối tiếc.)

Trong thời điểm kế tiếp, cha tôi có lẽ đã đưa bản sao bài tôi viết  dưới đây cho giáo sư Lê Văn, cựu khoa trưởng sư phạm thuộc viện đại học Huế. Giáo sư Lê Văn là thầy mà cũng là đồng nghiệp của ba tôi trong nghề giáo. Trong hai thập niên 1980 và 1990, giáo sư Lê Văn tổ chức nhiều hội thảo cho các diễn giả về Việt Học, liên kết với Bộ  giáo dục tiểu bang California ở Sacramento.  GS Lê Văn  nhã ý mời tôi đến phát biểu ở một buổi hội thảo do ông đề xuất, và đón tiếp tôi tại nhà riêng của ông bà. Tôi không được biết giáo sư Lê Văn và các cộng sự viên đã đưa bài viết  của tôi vào hợp tuyển nghiên cứu người Việt gọi là Dòng Việt (Viet Stream), hiện vẫn còn trên mạng lưới. Có lẽ đây là dịp độc nhất tôi được “xuất hiện” qua giấy bút bên cạnh những tên tuổi xuất sắc của thế hệ đi trước, các đồng nghiệp/bạn hữu của cha tôi (cha tôi là một nghệ sĩ tài tử, dưới nếp áo của bục gỗ, phấn trắng bảng đen, từ trước 1975 của cố hương mà tôi đã bỏ lại sau lưng).

Ðây là lý do cá nhân khiến tôi muốn làm sống lại bài viết này thành một loạt bài nhìn lại thế kỷ 20 và hình ảnh phụ nữ gốc Á. Nhưng lý do chính, lý do xã hội bao quát chứ không phải lý do cá nhân, là việc khởi phát phong trào “ME TOO” ở Mỹ, trong đó tôi chưa thấy rõ rệt bóng dáng của phụ nữ Việt, hay gốc Á…

Lần cuối tôi gặp giáo sư Lê Văn là khi ông bà ghé thăm cha mẹ tôi ở Houston là khoảng năm 1999-2000, trước thiên niên kỷ, thời điểm tôi đang chuyển từ hành nghề luật qua công việc giảng dạy. Khoảng  thời gian đó, trong số bạn bè và đồng nghiệp của tôi, có một ít nữ luật sư đã đưa đơn tố giác ở EEOC  (cơ quan liên bang bảo vệ dân trước vấn nạn kỳ thị), với mục đích khiếu nại, thưa kiện, chống lại các tổ hợp luật sư lớn và các tổng công ty đa quốc gia về tệ nạn quấy rối tình dục. Tôi được người hướng dẫn (mentor), một nữ luật sư kỳ cựu, cố vấn trưởng của một công ty viễn thông Fortune 500, bà bảo rằng các nguyên đơn khiếu kiện hoặc cáo giác nạn kỳ thị hay quấy rối tình dục chắc chắn phải đối mặt với một tương lai bị lọt vào sổ đen, đồng nghĩa với việc ô uế thanh danh và mất luôn con đường sự nghiệp, cho dù mình là nạn nhân. Vì vậy, tốt hơn nên cắn răng cam chịu và tiếp tục xây dựng nghề nghiệp mới, ở một nơi chốn khác.

Tôi không bao giờ quên cuộc bàn luận thân tình rất thẳng thắn này, qua điện thoại với người nữ luật sư kỳ cựu ấy, người đã ngồi ở bực thang cao nhất của địa hạt công ty, thương trường Mỹ:  cuộc đàm thoại khẳng định một thực tế khắt khe trong một nước Mỹ bình đẳng, một xã hội nơi mà mọi người cứ tưởng ai cũng có thể tiếp cận công lý và tự do ngôn luận. Lời khuyên giữ “yên lặng” rất phù hợp với hình ảnh truyền thống của phụ nữ châu Á, phần tử “yếu mềm” của “một nền văn hóa yên lặng, một mô tả khá thịnh hành trong nước Mỹ, rằng phụ nữ yên lặng là những thành viên khuôn mẫu của một “thiểu số yên lặng.” Châu Á yên lặng trong một thế giới không yên lặng.

Song song với phong trào “ME TOO” của nước Mỹ, cuộc bầu cử tổng thống Hoa Kỳ năm 2016 mở ra một chương mới về hình ảnh phụ nữ tại Mỹ:  Ðệ nhất phu nhân Melania Trump đã phá vỡ những rào cản, vượt qua những hình ảnh người mẫu gợi cảm phô trương, công khai bỏ qua các cáo buộc hành vi thiếu chuẩn mực về tính dục của chồng. Bà tuyên bố với truyền thông Mỹ là bà xem đó như vấn đề “chuyện đàn ông con nít” (boys’ talks), và các cáo buộc chính khách ngoại tình “chẳng phải là quan tâm của tôi,” bà nói.

Bà Trump không phải là người đầu tiên nâng cao hình ảnh người mẫu và phụ nữ trong giới giải trí lên tầm vóc “nguyên thủ quốc gia” nhờ kết hôn. Ðệ nhất phu nhân Pháp quốc chứng tỏ cho thế giới thấy rằng: quay ngược lại thời gian, Marilyn Monroe xinh đẹp với cái lưng ong đã có thể biến nghệ thuật trình diễn của mình trở thành ngôi vị Ðệ nhất phu nhân, thập niên 1960, bằng cách thoát khỏi hình mẫu của biểu tượng tính dục (sex symbol), định mệnh đàn bà, và tiêu biểu đau khổ của một mỹ nhân có số phận bi thảm. Gần như nửa thế kỷ sau cái chết của Monroe, và sau hàng chục và hàng chục diễn viên nữ đứng lên bày tỏ tiếng nói về trải nghiệm đáng sợ của họ trong một thế giới của những người đàn ông quyền lực ưa “sờ mó”, “xô đẩy”, và hành động vũ phu, ngay cả hãm hiếp.  Nếu Monroe còn sống, bà cũng sẽ thì thào, “ME TOO!” bằng giọng nũng nịu, hơi khàn khàn nhưng ngọt lịm từ trong cổ, rất đặc trưng của bà.

Phong trào “ME TOO” ở Mỹ đi quá xa, theo Catherine Deneuve mẫu mực, một tài tử quốc tế và là báu vật của nước Pháp, và cũng là người hâm mộ Monroe. Ngôi sao cao sang của nước  Pháp này tham gia với hơn 100 phụ nữ Pháp trong ngành giải trí, xuất bản, và hàn lâm, đưa lập luận trong một bức thư gởi tới tờ Le Monde rằng phụ nữ và đàn ông ngày nay đã dùng phương tiện mạng xã hội như một diễn đàn táo bạo mô tả những hành vi sai quấy tình dục, bằng cách công khai theo đuổi, trưng bày những kinh nghiệm cá nhân, từ đó tạo ra một không khí độc tài toàn trị. Bức thư có đoạn viết:  “Hiếp dâm là tội ác. Nhưng tán tỉnh lỳ lợm hay xô bồ không phải là tội ác, cũng không phải dâm ô, hay vồ vập coi thường phụ nữ.” Deneuve sau này đã xin lỗi vì có ký tên trên lá thư đó, lá thư đã mô tả phong trào “ME TOO” là “trò săn phù thủy” “khắt khe.” Trong một bài viết mục xã luận, Deneuve giải thích lời xin lỗi của bà: “Tôi làm diễn viên từ khi tôi 17 tuổi… Tôi chứng kiến nhiều tình huống còn hơn là tế nhị nhạy cảm… Ðơn giản, tôi không cần phải lên tiếng nói thay cho chị em của mình.”

Dĩ nhiên, trong những “chị em” của Deneuve bắt buộc phải có những phụ nữ gốc  Á “trầm lặng,”  có mặt ở châu Âu, Mỹ,  Á,  Phi, trong các nền “tiểu văn hóa của sự yên lặng”, nơi mà câu nói “ME TOO” có thể là biểu hiện của nỗi hổ thẹn ở quê nhà, nơi mà “ẩn số của yên lặng” áp đặt lên người phụ nữ bởi một “thế giới bên ngoài vô cảm.”

Gần đây nhất (tháng 11 năm 2019), cũng trong chính quyền TT. Trump, một phụ nữ châu Á duyên dáng, Mina Chang, người được bổ nhiệm Phụ tá Thứ trưởng Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ, đã phải đối mặt với cáo buộc gian lận, làm ô danh “con gái châu Á hiền lành nghiêm túc và chăm chỉ.”  Ðây là một phụ nữ bị cho rằng đã leo bậc thang danh vọng nghề nghiệp trong khi không xứng đáng, cho nên phải “gian lận” về thành quả xuất sắc của mình, nào là tốt nghiệp Ivy League Harvard, vân vân. Nói một cách khác, Chang đã lộ liễu đi ngược lại chuẩn mực văn hóa và đạo đức của phụ nữ châu Á đến nỗi cô ta thực sự đã ngang nhiên tạo ra “một thực tế hư ảo thay thế thực trạng có thật” (alternate reality), để củng cố cho chính mình trước quần chúng: theo cáo buộc, thì cô đã gian trá bằng cấp Harvard, thổi phồng thành quả nhiều kinh nghiệm trong công tác nhân quyền quốc tế, tổ chức từ thiện, và khả năng lãnh đạo, để được cất nhắc vào một chức vụ chính trị của chính phủ Mỹ. Trong lịch sử trải nghiệm của phụ nữ cộng đồng Mỹ gốc Á, Chang đã trả một giá rất đắt.  Ðiều này đã tạo nên thành kiến gì cho biểu tượng phụ nữ gốc Á xinh đẹp?

Lại mới đây nữa, trước thềm năm 2020, năm quyết định vận mạng nước Mỹ, một nữ ứng cử viên tổng thống, gốc Á và da màu, cựu công tố viên tiểu bang California, và đương kim nghị sĩ liên bang Kamala Harris, đã bước ra ngoài vòng tranh cử tổng thống của đảng Dân Chủ, từ bỏ “ánh đèn sân khấu gay go nhất” ấy, sau khi công chúng biết rằng khi còn trẻ, bà đã “hẹn hò tình  ái” với một người đàn ông quyền lực quá nhiều tuổi so với bà. Theo bà, thì ngay hôm nay, việc bà “bỏ cuộc chơi” nơi chốn chính trường của “siêu quốc gia quyền lực thế giới” này, chung quy cũng chỉ vì bà “không tiền rừng bạc bể.”

Ðối mặt với tất cả bối cảnh này, trong một giây phút hoài niệm, tôi dùng Google internet để tìm kiếm và phát hiện bài viết của mình trong Viet Stream của giáo sư quá cố Lê Văn. Tôi quyết định cập nhật bài viết và sẽ đưa ngòi bút đến độc giả Việt Nam dưới hình thức dịch thuật, qua sự giúp đỡ của một độc giả, bởi lẽ tôi tin nên có một nhu cầu nhìn lại quá khứ cho hành trình trước mặt của phụ nữ gốc Việt tại Mỹ, ở đủ các loại “sân khấu,” kể cả sân khấu của “yên lặng” mà chúng ta gọi là “nguồn cội.” (Tình trạng từ 1975 và đã bao lâu nay thì hình như sự yên lặng của Ðất đã trở thành hiện tượng “đóng cửa mà cãi nhau” — người Việt cãi người Việt mà thôi, dễ dàng đi đến tình trạng mạ lỵ phỉ báng, tựu trung là hiện tượng “ai muốn nói gì thì nói,” xong rồi thì…biến mất, hoặc người Việt đưa nhau ra toà án Mỹ, với những trở ngại tâm lý chẳng hạn như:  tránh voi không xấu mặt nào, chén kiểu chọi với chén sành, không nên dây dưa với hủi, một sự nhịn chín sự lành, vân vân.)

Nhìn lại tổng quát thế kỷ 20 và nhìn trước mặt, chúng ta cần hỏi: Có một sự tiến bộ, hay chỉ là nuối tiếc hoặc thoái hoá, hay là kết hợp cả hai thái cực, trong cái nhìn biểu tượng nhưng thấu đáo về phụ nữ gốc Á trong dòng chính của thế giới Âu Mỹ?

Từ thời điểm tuổi trẻ của tôi, những năm sau 2010, tôi đã chứng kiến và ghi nhận rất nhiều sự lớn mạnh trong phụ nữ Mỹ gốc Á và gốc Việt: nhiều gương mặt xuất hiện, chiếm những vị trí cao ở chốn công quyền, các chức vụ dân cử, môi trường nghệ thuật, giải trí, hàn lâm và doanh nghiệp. (Trong thập niên 2000, khi tôi còn dạy đại học luật, thì danh sách niên giám giáo sư luật gốc Việt tại Mỹ có tất cả là 7 người:  Việt Ðinh, Lan Cao, Nhân Vũ, Thảo Nguyễn, Huyền Phạm, tôi Wendy NN Duong, và thêm một vị đã về hưu là bà Tăng thị Thành Trai. Hình như chỉ có tôi là dạy môn bắt buộc phải có mặt trên kỳ thi vào luật sư đoàn khi sinh viên tốt nghiệp. Còn các vị kia dạy những môn mà sinh viên chọn lựa – (elective).  Ngoài điểm bảy người này là gốc Việt, thì trong số bảy người, đến sáu người đều chia sẻ mẫu số chung rằng họ có bằng cấp từ trường luật của đại học Harvard hoặc Yale. Riêng bà Trai thì tốt nghiệp luật ở bên Pháp và sau đó học lại ở Chicago, được coi là Ivy League như Yale và Harvard. Trong số bảy người, đã dạy rồi từ chức để quay trở lại hành nghề thì chỉ có tôi và Nhân Vũ. Và hai người tốt nghiệp luật sớm nhất ở Mỹ là tôi và bà Trai, thuộc thế hệ của cha mẹ tôi.  Khi tôi đang học luật năm thứ nhất thì bà Trai đang làm việc cho nhà in thông số về luật, công ty Sheppard – (muốn đăng tải thông số về luật cho các luật sư nghiên cứu xem luật có còn được áp dụng hay không thì phải có luật gia đọc những án lệ của toà).  Vì thế trong những năm đi học tôi có được niềm an ủi là thế hệ của cha mẹ tôi có người làm gương cho tôi ở nước Mỹ trong thế giới luật, tuy rằng giữa tôi và bà Trai không hề có liên lạc cá nhân trong thời điểm đó.  Và những quyết định về nghề nghiệp tôi không hề có ai trong cộng đồng gốc Việt hướng dẫn hay chia sẻ.

Tuy nhiên, một sự thật tồn tại: chưa có được một nữ đại sứ, nữ thượng nghị sĩ liên bang Hoa Kỳ, nữ giám đốc chủ tịch điều hành CEO Fortune 500, nữ chủ tịch, viện trưởng đại học, người nữ đoạt giải Nobel, nữ thẩm phán tòa án liên bang tối cao, nữ diễn viên hay nữ đạo diễn giải Oscar, mà là phụ nữ Mỹ gốc Việt. Và còn nhiều vai trò khác mà sự tưởng tượng của chúng ta có thể hình dung, kể từ khi tôi được “lôi ra” đảm nhận việc ngồi tòa khiêm nhường ở địa phận Houston, và kể từ khi tôi tháo bỏ tạm áo luật sư, đơn thân độc mã trên đại lộ Broadway của Nữu Ước, với tờ giấy nhạc đơn sơ bản Giọt Mưa Trên Lá, không chút kinh nghiệm hay huấn luyện công phu trường kỳ nào, mà lại dám gõ cửa văn phòng Casting Agency của Johnson Liff.

Cuối cùng, nhưng không kém phần quan trọng, không có một nguyên thủ quốc gia là phụ nữ Việt nào, thực sự so với hình ảnh 2000 năm trước của Hai Bà Trưng (người dựng nước Việt Nam năm 40 sau Công Nguyên), hay một Triệu Thị Trinh muốn chém cá Tràng Kình ở Bể Ðông, khoảng 200 năm sau đó?

Nhưng điều này có ý nghĩa gì, khi gương mặt một người nữ Việt Nam hay một phụ nữ Mỹ gốc Việt nào, cuối cùng thì cũng sẽ xuất hiện trong bất kỳ những vai trò này, có thể thực sự làm nên khác biệt? Khác biệt như thế nào? Và đó là sự khác biệt gì, ra sao?

Có phải chúng ta sẽ chỉ nhìn một gương mặt, nguồn gốc di truyền và sắc tộc, hay là chúng ta nên nhìn sự hy sinh, cá nhân hay tập thể, từ một người, nhiều người, rất nhiều người, có tên hay không tên, được nêu danh hay không hề được biết đến, tất cả những ai đã góp phần xây đắp vun trồng và dấn thân, đặt mình xuống để trở thành những viên đá đầu tiên qua sự hy sinh, đầu óc xuất sắc, thái độ kiên trì, và lòng can đảm, kể luôn cả cá tính lập dị, để chiếm lấy cơ hội, hay để bỏ qua cơ hội, của từng người, nhằm đưa sự thành tựu của cá nhân trở thành tập thể?

Ðó mới là nguyên nhân tôi muốn khôi phục lại bài viết trước đây: một cái nhìn về quá khứ, cần thiết để bắt đầu phản ảnh sâu xa hơn, về con đường trước mặt, bên ngoài “VietStream” của cố giáo sư Lê Văn khả kính và nhân ái. Tôi muốn đưa ra thách thức, và dành câu trả lời cho mỗi người, hay tất cả mọi người, đàn ông cũng như đàn bà, như bất kỳ một câu trả lời khả dĩ nào, ở mọi tầm nhìn với mỗi chọn lựa cá nhân cũng như sự chuẩn bị tập thể. Quan trọng nhất, là nhìn cho ra chân dung một lý do thật chính đáng, đi đến sự chung tay hỗ trợ, sự đoàn kết tối cần thiết cho sự tồn tại và khởi sắc cho văn hóa và tập thể Việt Nam, ở Việt Nam hay ở Mỹ thì cũng thế.

Đề bạt:

Tôi, một người đàn bà Phương Ðông

đứng giữa những bức tường hỗn loạn…

Ðang kiếm tìm một lối về quê

Tôi không còn ngóng trông chồng

trên đỉnh núi cô đơn

không còn ru con nữa

Giờ đây

tôi phải chấp nhận di sản

thanh gươm của người chinh phụ

DNN 1989

1

Hình ảnh cánh bướm

Tình yêu lớn của tôi trên đời là âm nhạc Madam Butterfly của Puccini. Dĩ nhiên, âm nhạc trong tác phẩm thật tuyệt vời, nhưng cũng có câu chuyện cảm động về một người phụ nữ châu Á chết vì một đàn ông Tây phương – một người không xứng đáng với nàng, cưới nàng nhưng không thật lòng, cốt bỏ rơi nàng trong tuyệt vọng với ảo tưởng chàng sẽ một ngày quay lại.

Nhưng cái nhìn của Puccini về số phận bi thảm của phụ nữ biểu tượng phương Ðông không chỉ là một cái nhìn trên sân khấu. Chiến tranh Triều Tiên, tiếp theo là cuộc chiến Việt Nam, sản sinh ra những người Mỹ lai Á “bị ruồng bỏ,” mắc kẹt trên những đường phố quê nhà. Tuy nhiên, hình ảnh cánh bướm của Puccini, ngay cả khi được trình bày bởi một ca sĩ luống tuổi, có đôi mắt kẻ viền trắng như hạt hạnh nhân nằm nghiêng, vẫn còn là niềm say mê của phương Tây đối với phụ nữ châu Á.

Hình ảnh cánh bướm, dẫu sao, trong văn chương và triết học phương Ðông, thật ra tiêu biểu những gì sâu xa hơn là sự mảnh mai và trang nhã của phụ nữ. Hình ảnh  cánh bướm là một giao tiếp của người quân tử với thế giới siêu hình – sự kết nối giữa cái “tôi” của họ và một vũ trụ huyền bí.  Trang Tử, triết gia cổ đại người Trung Hoa, học trò Lão Tử, một lần mơ thấy mình biến thành bướm. Ông viết nhiều sách nổi tiếng về triết lý vũ trụ như muốn bày tỏ về giấc mơ của mình.

Trong giấc mơ Trang Tử, cánh bướm là một hóa thân được chọn để kết nối thế giới phàm tục con người với thế giới ảo, đầy tưởng tượng, một nơi mà tất cả ràng buộc trần thế không còn vương vấn, linh hồn con người giải thoát khỏi chính cái tôi, cái “ngã.” Cánh bướm do đó đã trở thành biểu tượng của những giấc mơ, tiềm thức, sáng tạo, và bí mật của bóng đêm tăm tối, chỉ được thắp sáng bởi sự giải thoát khỏi cái tôi. Phải qua quá trình tự giải thoát khỏi cái tôi thì con người mới có thể hòa nhập vào vũ trụ. Khái niệm hòa nhập với vũ trụ là nền tảng của cả Phật giáo lẫn Lão giáo – cốt lõi triết học và văn hóa phương Ðông.

Cánh bướm, hay chuyện thần bí biểu tượng của cánh bướm, cũng là biểu thị hình thái nguyên thủy của nữ tính trong văn chương phương Ðông. Một nhà văn thời xưa khác cũng người Trung Hoa, ông Bồ Tùng Linh, viết cuốn Liêu Trai Chí Dị,  một cốt truyện huyền bí đầy tưởng tượng, trong đó có những mẫu  chuyện về loài vật như thuồng luồng, cáo, gấu, chồn, bướm, hoặc côn trùng, hóa thân thành “phụ nữ” để giao hợp vợ chồng với đàn ông có học hay danh giá trong mọi tầng lớp xã hội, nhiều khi là học trò nghèo không tiến thân được trong xã hội Trung Hoa.  Những “phụ nữ” này cực kỳ xinh đẹp, thông minh, thường có phép thuật và theo đuổi một thứ chuẩn mực đạo đức rất thực dụng nhưng linh hoạt, không phù hợp những giá trị Khổng-Nho giáo đang thống trị xã hội hồi ấy. Với tự do khám phá tình yêu và quan niệm cấu trúc gia đình mới mẻ, những “phụ nữ” này khẳng định nữ tính của mình và xác định  ý thức về công bình hay chính nghĩa.  Vì lẽ không hoàn toàn là con người, họ không bị xét đoán bởi những lễ nghi, tục lệ, và giá trị đạo đức của xã hội Trung Hoa.

Tuy nhiên, để tuyên dương loại phụ nữ mới xuất hiện này, Bồ Tùng Linh đã lồng các nhân vật của mình bằng hình ảnh loài bò sát, cáo chồn, chim, gấu, ngay cả thực vật, hay cánh bướm, có khi là con ong hay những con côn trùng khác, hoặc đơn giản là những hồn  ma. Tiểu thuyết trở thành công cụ để bình thường hoá các phụ nữ không bình thường này, nhằm thay đổi đời sống qua cách vẽ ra một chân trời hoang tưởng. Tác phẩm của Bồ Tùng Linh vẫn còn nổi tiếng đến hôm nay cũng như thời  đại của ông, không những trong các nền văn hóa nói tiếng Hoa mà còn ở những nước láng giềng như Việt Nam. Chỗ đứng của nó trong văn học Á Ðông, dẫu còn tranh biện, thực sự không thể chối cãi.

2

Định kiến về cánh bướm hay phức hợp mặc cảm tự kỷ

Ý nghĩa triết học, tinh thần, và nữ tính của hình ảnh “Cánh Bướm” trong văn chương phương Ðông, tuy nhiên, lại ít được biết đến ở phương Tây. Qua âm nhạc của Puccini, phương Tây làm quen với việc xem hình ảnh Hồ Ðiệp Tử tiêu biểu cho nữ tính Á Ðông, tôi gọi đó là “Ðịnh kiến cánh bướm” hay “phức hợp mặc cảm” (một loại ám ảnh tự kỷ). Bài viết này là một cố gắng khám phá mô thức này, nhìn lại và sử dụng các ví dụ từ văn chương và nghệ thuật biểu diễn đương đại nước Mỹ trong thế kỷ 20:

– khi có sự kết hợp trao đổi giữa hai khối văn hóa Âu và Mỹ sau Thế chiến Thứ hai, khi Nhật đã đầu hàng với sự tàn phá cuả bom nguyên tử từ Mỹ;

– khi vấn đề căng thẳng chủng tộc và sự bình đẳng về quyền làm người trở nên tiên quyết ở cường quốc như Mỹ và Âu Châu;

– và khi cuộc chiến tranh lạnh giữa hai khối tư bản – cộng sản, đem đến những rối rắm phức tạp giữa Âu Mỹ và Á, cùng với những cuộc chiến tranh “đại diện” đẫm máu xảy ra ở Á Châu (tạm dịch chữ proxy war, thí dụ như chiến trường Triều Tiên và Việt Nam), lại qua chiến trận Trung Ðông và thảm kịch 9/11 mở màn cho chiến tranh tôn giáo;

– và sau cùng là việc tạo dựng một thế giới mới về tin học trước thềm ngưỡng cửa thế kỷ 21.

Tất cả những dữ kiện lịch sử xuyên thiên kỷ ấy bắt buộc tạo nên sự thay đổi về cách sử dụng nhân tố toàn cầu, đem lại những điều kiện mới “ắt có mà vẫn chưa đủ” về cách nhìn phụ nữ và Châu Á.

Trước những bối cảnh khá nhiễu nhương đó, tôi quay lại ý nghĩa triết học, tinh thần, và ngay cả nữ tính phiến diện của hình ảnh “Cánh Bướm” trong văn chương phương Ðông, qua đến “cánh bướm triết lý vô giới tính,” rất truyền thống ở phương Ðông lại ít được biết đến ở phương Tây.  Hãy so sánh những “motif” này với thực trạng của thế kỷ 20, thế kỷ của cấu xé, tranh thủ, đọ sức, thử lửa, nhưng lại là bước sửa soạn cho thế kỷ 21 –  chúng ta, những khuôn mặt phụ nữ của cội nguồn Châu Á, đang tiến hay lùi?

Tác phẩm  soạn giả Hwang (Ông Hồ Ðiệp Tử) là một chủ đề phức tạp, dấy lên các câu hỏi thật khó về cuộc sống, tình yêu, hận thù, tình dục, chính trị, và sự giao thoa giữa Ðông và Tây, giữa đàn ông và đàn bà, giữa đàn ông với đàn ông.  Ðưa ra những câu hỏi rất khó giải đáp này, soạn giả Hwang tự kiến tạo lại “hội chứng Madam Butterfly” – một định kiến về phụ nữ châu Á – chỉ để thách thức và lên án nó.

Sau đó nữa thì kịch phẩm M. Butterfly của thập niên 1980 cũng được đem lên màn bạc Hollywood, với tài tử đẹp trai Jeremy Irons: thật ra chỉ làm cho khán giả nhớ đến và đối chiếu tính lãng mạn hoá qua hình ảnh con người đam mê và liên hệ mờ mịt đầy tính cách sương mù giữa phương Tây với Trung Cộng.  Vở “Ông Hồ Ðiệp Tử khác biệt hẳn tính chất nặng nề màu sắc chính trị của miền Nam quả địa cầu trong vở kịch “Kiss of a Spider Woman” (Nụ Hôn của Nàng Nhện), thập niên 1980, với tài tử lừng khừng William Hurt bên cạnh những bức tường của ngục tối. Kịch bản và phim “Nàng Nhện” được dựa trên một sản phẩm văn chương nổi tiếng của Châu Mỹ La-Tinh, đưa ra vấn đề đàn ông với đàn ông trong bối cảnh chính trị của ngục tù.

Ngay sau thành công  soạn giả Hwang, hình ảnh Madam Butterfly được nhắc lại, lần này bởi sân khấu West End của thủ phủ Luân Ðôn, và sân khấu Broadway  thành phố Nữu Ước.  Các nhà sản xuất và sáng tác không hề giấu diếm sự thật: cốt truyện của Miss Saigon được tái tạo từ vở “Hồ Ðiệp Tử,” Madam Butterfly,  nhạc gia Puccini.

Thời gian, địa điểm và nhân vật đã được thay đổi. Butterfly, cánh bướm, bây giờ là cô gái bán “bar” của Sài Gòn trong thời điểm cuối cùng của chiến tranh Việt Nam. Cảnh “tự vẫn” thương tâm và nổi tiếng toàn cầu trong tiếng hát nức nở của ca sĩ opera Maria Callas, bây giờ xảy ra một nơi nào đó, gần một trà điếm ở Bangkok.   Người yêu  định mệnh chia tay bây giờ là một anh chàng lính Mỹ GI điển trai, có lẽ nhạy cảm hơn, hát những ca khúc jazzy đẹp mượt mà về sự hỗn loạn và rối rắm  thành phố Saigon, gây ra do sự vô nghĩa chiến tranh đè nặng lên cuộc  sống chàng lính viễn chinh, và cũng bởi tình cảm âu yếm chàng dành cho một cô gái bán quán ngây thơ, trơ trọi giữa chợ đời, mà chàng đã đem lòng yêu mến, một buổi tối chàng bỏ trại lính đi uống rượu.

Nhưng kết cuộc thì vẫn là: chàng đã làm tan vỡ quả tim nàng con gái Việt Nam, trong giờ phút cuối cùng, và rồi nàng cũng đã đi đến cái chết thảm thương: tự vẫn để giao con lại cho chàng và người vợ Mỹ.

Mâu thuẫn chủng tộc chung quanh các vai đóng Miss Saigon làm cho nhạc kịch tăng thêm phần nổi tiếng. Hoặc là một nữ diễn viên-ca sĩ  Phi sẽ đóng vai một thiếu  nữ Việt Nam, hoặc là diễn viên phong cách Shakespeare người Anh Jonathan Pryce sẽ đóng vai nam người Mỹ, tất cả đã gây ra các cuộc tranh cãi trong cộng đồng nghệ thuật diễn viên người Mỹ gốc Á. Nhưng chúng ta không nên để cho những cuộc tranh cãi này làm xao nhãng vấn nạn thật sự — làm thế nào để một tác phẩm nhiều triệu đô la này miêu tả được nền văn hóa, lịch sử và con người  Việt Nam trên sân khấu Broadway một cách mẫn cảm, chính xác, tiêu biểu, và thể hiện.

Chắc chắn, nhạc kịch sẽ phải là một sản phẩm phương Tây cho một công chúng phương Tây, nhưng Việt Nam và người dân Việt — chuyện xảy ra ở Việt Nam — trở thành  cốt truyện, là chủ đề  tác phẩm!  Âm nhạc sẽ là âm hưởng Jazz, nhưng nhà soạn nhạc cũng đã cố gắng tìm một chút âm hưởng dân ca Việt qua vài nỗ lực sáng tác để đem lại phong cách Á đông cho phần nhạc. Chẳng có hàng chữ nào cho thấy  có cố vấn người Việt tham gia vào tác phẩm hay chu trình dựng kịch.  Một vài chữ tiếng Việt được quăng vào phần ca từ nhưng lại bị phát âm sai một cách thảm hại! Trang phục không mô tả chính xác hay tương ứng với y phục người Việt trong thập niên 1970, cho dù là trang phục của gái bán “bar” đi chăng nữa,  cả cảnh dàn dựng cho cốt truyện cũng vậy!

Giá trị duy nhất và điểm son tôi tìm thấy ở tác phẩm – ngoài  phần nhạc Jazz, giai điệu và tiết điệu khá hay của nhạc thời trang, và cảnh “trực thăng” “hoành tráng,” cũng như cảnh “vĩ đại” của đoàn quân “đỏ” vào Saigon – chính là sự kiện nhà sản xuất Cameron McKintosh quyết định đưa ra những hình chiếu thật sự “đời thường” về trẻ em Việt Nam để mở đầu sân khấu. Có lẽ việc thu nhập hàng triệu triệu đô la từ đề tài mẹ Việt Nam đã khiến cho nhà sản xuất Miss Saigon xen vào nhạc kịch một phần trình bày ít ỏi nhằm nói lên lương tâm nhân loại, một “nhận thức có tính cách lương tâm xã hội” của tập đoàn sản xuất!

Thành công về mặt thương mại Miss Saigon nằm ở hình ảnh lãng mạn một người con gái bán quán bia rượu, chẳng khác chi một thứ nhà chứa trá hình như Truyện Kiều gần gũi với văn  hoá Việt Nam, nhưng lại có thêm hình ảnh Romeo là chàng lính đồng minh mà đảng cộng sản cho là kẻ thù dân tộc, một hình thức ngang trái éo le của kịch phẩm Shakespeare:  tình yêu cao thượng giữa hận thù truyền kiếp. Nàng Juliet xấu số nhà quê của Việt Nam phải cắt lìa nắm ruột, đem cho đứa con thân yêu, xa quê hương, bị bỏ rơi, nàng yêu nhiều nhưng chẳng nhận được bao nhiêu, và là nạn nhân một tên đàn ông phương Tây, như lính viễn chinh của thời Pháp thuộc.  Sự tán thưởng quần chúng đối với Miss Saigon còn bắt rễ sâu xa hơn từ cái “bắt mắt” của một sân khấu vĩ đại: lòng thán phục của khán giả địa phương về kỹ thuật dàn dựng rất điêu luyện, tạo dựng lại trên sân khấu một Sài Gòn hoảng loạn trong những ngày hấp hối. Ðể báo hiệu cuộc tháo chạy nhẫn tâm  người Mỹ: nhà sản xuất mang luôn một chiếc trực thăng lên sân khấu.

Trong thực  chất, nhạc kịch Miss Saigon chỉ là một phiên bản khác, cũng vẫn là khả năng tưởng tượng phương Tây về câu chuyện huyền thoại mang bóng hình phụ nữ phương Ðông, mà phương Tây đã tạo nên qua âm nhạc Puccini trong quá khứ:  phủ phục, vị tha, dâng hiến và chịu đựng là điển hình cho  phụ nữ đang yêu của châu Á: –nạn nhân của tình trường khi Ðông và Tây yêu nhau. Như thế, Miss Saigon khẳng định lại thành  kiến đã lâu đời về phụ nữ châu Á, diễn tả từ sân khấu.

Ngày hôm nay, thế kỷ 21, vở nhạc kịch Miss Saigon đã lưu diễn, và vài bé gái Việt sinh trưởng ở Mỹ đã tách rời truyền thống cũ “xướng ca vô loài” bằng cách  học nhạc, học diễn xuất, làn hơi phong phú và với giọng Anh ngữ của bản xứ, đã thủ diễn vai chính vai  phụ trên sân khấu địa phương, cũng như tái diễn kịch bản này tại Nữu Ước.  Nhiều bé gái Việt lớn lên ở Mỹ đã bày tỏ sự tức tối về kịch bản này. Việc chống đối Miss Saigon ngày hôm nay không chỉ nằm ở khía cạnh chọn diễn viên, mà là ở một ấm ức văn hoá nào đó qua những bất bình được diễn tả trên mạng lưới, tiếng Việt cũng như tiếng Anh: nhiều người bất mãn đã không còn thấy cái đẹp của Miss Saigon như tôi đã thấy qua biểu tượng tình mẫu tử của những kẻ khốn cùng.  Bất mãn cũng không thay đổi thực thể, status quo, vì Miss Saigon vẫn nổi tiếng, được ăn khách trong giới khán giả của giải trí “thời thượng,” và sẽ tạo nên “sự nghiệp sân khấu ca hát Broadway cho các diễn viên-ca sĩ như trường hợp của nữ danh ca gốc Phi Luật Tân Lea Salonga.

Nếu các soạn giả gốc Việt muốn cái gì khác hơn, thì họ có quyền tạo dựng bằng cách xây nghề nghiệp trong dòng chính, nhưng khi họ thành công, lấy trường hợp gần nhất của soạn giả Quý Nguyễn của vở kịch “rap” Vietgone, sản phẩm ấy cũng vẫn mang cái khung văn hóa của người Mỹ (nhạc “rap” và đầy rẫy ngôn ngữ chửi thề cùng với hình ảnh của nhục thể, dù rằng các cảnh trí được xây dựng ở thời điểm 1975 hay trong không khí gia đình Việt Nam, giữa người Việt với nhau: cha với con, mẹ với con, hay giữa tình nhân với nhau trong bối cảnh tâm lý của người di tản thế hệ thứ nhất: gia đình trung lưu của Việt Nam thời ấy có ai chửi thề hay diễn tả lộ liễu về tình dục như các diễn viên sân khấu như thế không?  Và sự thác loạn nhất thời giữa hai thể xác nam nữ, có thật chăng nữa, cũng sẽ không xảy ra ngang nhiên trước mặt mẹ già trong hoàn cảnh nước mất nhà tan, mà sẽ phải là sự giấu diếm và che đậy??? Nói tóm lại, vở nhạc kịch Vietgone của soạn giả Quý Nguyễn có thực sự phản ảnh văn hoá Việt Nam thời 1975 hay không?  Tôi xin dành câu trả lời cho khán giả gốc Việt.

Hãy lấy màn bạc làm ví dụ đầu tiên. Theo thông lệ truyền thống, chúng ta luôn luôn thấy phụ nữ Á đông như là những cô gái bán hoa, người hầu, hay nông dân chân lấm tay bùn. Năm phút trên màn hình, họ bị làm tình, cưỡng hiếp, đánh đập hay bắn chết. Nếu không bị cưỡng hiếp hay bắn chết, thì họ là những “đàn bà mê hoặc:” nhiều âm mưu, ưa đồng lõa, nham hiểm nhằm mục đích giết chết hay đứng về phía kẻ thù, có khi là cướp lấy… đồng đô la (!!!): hình ảnh của những con rồng cái hay cọp cái!

Sau thế chiến thứ hai, tài tử Nancy Kwan khởi sự cái việc có vẻ là một sự nghiệp đóng phim đầy hứa hẹn, với một vai tên tuổi trong The World of Suzie Wong bên cạnh William Holden. Cô Wong đầy cá tính và nhập vai rất tốt – một sự cải thiện rõ ràng từ các vai tiêu chuẩn của phụ nữ Á Châu là đàn bà dụ dỗ đàn ông, mê hoặc, gái điếm, gái quê nông thôn hay công nhân giặt ủi, nhưng sau cùng, nhân vật Cô Wong vẫn đại diện cái đam mê của phương Tây với phụ nữ Á đông mà thôi. Nữ tài tử Kwan xuất hiện trong vài phim nữa, nhưng sự nghiệp cũng ngắn ngủi. Lần cuối cùng công chúng nhìn thấy cô trong vài quảng cáo kem xoa mặt châu Á.

Thập niên 1980 trình làng ở Hollywood một nữ minh tinh sinh ở Trung Quốc, Joan Chen, nhưng lúc ấy thật tình không rõ Chen có tránh được hoàn toàn cái mẫu rập khuôn “Thiếu nữ Á đông” hay không. Kế tiếp, Chen được đạo diễn David Lynch cho một vai trong drama series Twin Peak, và cô nhuộm răng đen để đóng vai mẹ Việt Nam trong phim của Oliver Stone (lại một sản phẩm rập khuôn thành kiến nữa (stereotype): con gái Việt Nam sống ở đồng ruộng thì bị cột lại, rồi lính Mỹ hoặc lính Việt Nam Cộng Hoà cho rắn bò vào ngực áo như thể gái quê sợ rắn không bằng, và giữa chiến tranh du kích khi xác người nổ tung thành mưa bụi, quân nhân thì nổi điên bắn hàng loạt như Mỹ Lai, ai có thì giờ để đạo diễn rắn bò vào áo con gái quê như… Oliver Stone (đã từng có mặt ở chiến trường Việt Nam, nhưng chắc… không lâu và chắc không sinh hoạt với dân quê Việt).

Sau cùng, cô Chen, gương mặt sáng giá của Châu Á ở Hollywood, cũng thăng tiến nghề nghiệp, trở thành đạo diễn (chỉ đạo một phim có mặt Richard Gere là vai chính trong đó). Ði đến đâu? Chẳng thấy giải thưởng Oscar.  Rút cục, Chen làm đám cưới với một bác sĩ giải phẫu, và trở về Trung Quốc làm phim.

Sau khi Saigon thất thủ năm 1975, trong nhiều thập niên, có nhiều sản phẩm của Hollywood về chiến tranh Việt Nam.  Một trong những  phim về chiến tranh Việt Nam là “Casualties of War” với tài tử Michael Jay Fox, Tổn Thất Chiến Tranh.  Trong đó, hình ảnh người phụ nữ Việt Nam dưới con mắt các nhà làm phim Hollywood là một cô gái trẻ yếu đuối, bị bắt cóc, tra tấn, lạm dụng, cưỡng hiếp, đánh đập, đâm chém, và sau đó banh thây vì lựu đạn trên một cái cầu!!!. Trong một cảnh, Sean Penn cầm cổ cô gái nhỏ người Việt nhấc lên, y như cách người ta cầm cổ một con gà để cắt tiết. Không kể thông điệp đạo đức của bộ phim và giá trị hiện thực, tôi quan tâm sâu xa đến hình ảnh “con gà chết” thảm thương hiền lành này, một cách hoàn toàn vô thức, sẽ in đậm và trở thành hình ảnh một phụ nữ Việt Nam trong tâm trí của công chúng người xem nước Mỹ: một nạn nhân của chiến tranh, trơ trọi, không còn là con người, và đánh mất bản sắc tự lập, tự điều khiển sự sống còn của chính mình.

Như đã nói ở bài trước khi tôi bàn luận về nghệ thuật trình diễn, trên sân khấu và trên sàn diễn kịch nghệ (không phải màn bạc của Hollywood), từ thời Puccini, hiếm thấy một nhân vật nữ châu Á nào, ngoài Hồ Ðiệp Tử trên sân khấu opera. Thập niên 1980 và 1990, tuy nhiên, đánh dấu hai sản phẩm nghệ thuật làm hồi sinh hình ảnh Cánh Bướm.

Cuối thập niên 1980, giải Tony Award đến tay David Henry Hwang, một di dân Trung Hoa thế hệ thứ hai, với sáng tác kịch bản sân khấu lấy từ một vụ tai tiếng có tính cách do thám-điệp viên, gây chấn động cộng đồng ngoại giao và quốc tế của thập niên ấy. Gọi tác phẩm mình là “M. Butterfly” (thay vì tên Monsieur Butterfly như trước đó), Hwang kể chuyện một nhà ngoại giao Pháp đem lòng yêu một nữ diễn viên opera người Trung Quốc, theo đuổi tương quan với cô trong hơn 10 năm, chỉ đi đến kết quả là chàng khám phá ra nàng Butterfly lý tưởng của lòng anh thực ra là một gã đàn ông, một gián điệp Trung Quốc. Nhà ngoại giao đã yêu thương, vun đắp, và giữ mãi hình ảnh một người phụ nữ châu Á hoàn mỹ, trong vai Butterfly, và đã thực hiện mơ tưởng đó thành… sự thật, dù rằng sự thật của lừa dối.

Tác phẩm của Hwang là một chủ đề phức tạp, dấy lên các câu hỏi thật khó về cuộc sống, tình yêu, hận thù, tình dục, chính trị, và sự giao thoa giữa Ðông và Tây, giữa đàn ông và đàn bà, giữa đàn ông với đàn ông. Ðưa ra những câu hỏi rất khó giải đáp này, Hwang tự kiến tạo lại hội chứng Madam Butterfly – một định kiến về phụ nữ châu Á – chỉ để thách thức và lên án nó. (Sau đó nữa thì M. Butterfly của thập niên 1980 cũng được đem lên màn bạc Hollywood, với tài tử đẹp trai Jeremy Iron; thật ra chỉ làm cho khán giả nhớ đến và đối chiếu tính lãng mạn hoá qua hình ảnh con người đam mê và liên hệ mờ mịt đầy tính cách sương mù giữa phương Tây với Trung Cộng, so với sự nặng nề màu sắc chính trị của miền Nam quả địa cầu trong “Kiss of a Spider Woman” (Nụ Hôn Của Nàng Nhện), thập niên 1980, với tài tử lừng khừng William Hurt bên cạnh những bức tường của ngục tối…). Kịch bản và phim “Nàng Nhện” được dựa trên một sản phẩm văn chương nổi tiếng của Châu Mỹ La-Tinh.

Trong lĩnh vực văn chương của thế kỷ 20, người phụ nữ châu Á đã được coi trọng hơn. Nhưng sự coi trọng ấy tự nó cũng vẫn dựa trên định kiến. Trong cuốn tiểu thuyết thương mại nhưng rất hay, The Immigrants (Người Di Dân), của Howard Fast, thập niên 1950, nhân vật chính – một triệu phú tự lập thân, Daniel Lavette – thuê một anh “ba Tàu” làm kế toán, lại đem lòng yêu con gái ông ta, bỏ bà vợ Knob Hill xinh đẹp sang trọng, con gái chủ nhà băng, nhưng lạnh lùng vô cảm, để đeo đuổi cô nhân tình người Hoa.  Người vợ “bé” châu Á dạy Lavette văn hóa, truyền thống, văn chương, chuyện thần thoại, cùng với tính liêm khiết và sự tử tế làm người, trái ngược với sự cách biệt và hợm hĩnh thường hay biểu lộ ở bà vợ giàu có mà…tính tình kiêu ngạo thối nát. Sau cùng, người phụ nữ châu Á hân hoan đón nhận một Lavette trắng tay khi vương quốc hàng hải của ông ta đổ sụp.

Nhưng tình nhân người Hoa của Lavette vẫn rất giống Madam Butterfly, Hồ Ðiệp Tử, mà phương Tây hay quen nhìn, trừ chi tiết cô không phải chết thương tâm.  Bản thân Lavette từ đầu không thể quyết định xem cô ta có hấp dẫn không trong con mắt của ông… Cũng giống như Madam Butterfly (và Miss Saigon), để có Lavette, cô gái Hoa làm nghề mọt sách quản thủ thư viện đã phải sinh  đứa con ngoài giá thú, chịu đựng sự ruồng bỏ của văn hóa mẹ.  Cô là người vợ châu Á hoàn hảo, thu hút, hay giúp đỡ, khôn trước tuổi, xây cho Lavette một mái ấm gia đình khi tinh thần  ông  hoảng loạn, không còn phương hướng.

Phụ nữ châu Á xuất hiện ở nhiều vị trí phức tạp hơn trong các tác phẩm của nhà văn đoạt giải Nobel Pearl S. Buck. Nhân vật nữ chính của Buck lộ rõ phẩm chất thông minh, linh hoạt, có chiều sâu, quyết đoán, tận tụy, phức tạp, và thường mang những ý thức nên thơ về hoài niệm nguồn cội. Nhờ Madam Buck, người đã trải nghiệm gần cả cuộc đời ở châu Á vì bà là ái nữ một nhà truyền giáo, đất nước  Trung Hoa huyền bí tự mở ra trước con mắt của người phương Tây, vào thời điểm Mao Trạch Ðông đã đóng cửa Trung Hoa, tách rời lục địa ra khỏi tia nhìn từ phương Tây. Thế nhưng, Madam Buck vẫn viết về châu Á, đàn ông, đàn bà, và lối sống Ðông phương theo nhãn quan của người ở bên ngoài, nhãn quan ấy xem xét, rồi xâu chuỗi lại. Theo chữ nghĩa của nhà nhân chủng học về văn hóa, Madam Buck là người “quan-sát-trong-cuộc,” nhưng vẫn không phải là người đã trải qua kinh nghiệm như một thành viên sinh ra của bộ tộc! Những người phụ nữ của Madam Buck luôn luôn tự chủ. Họ tự khẳng định theo cách riêng rất châu Á, trên lãnh địa của chính mình – một châu Á đang thay đổi, mặt đối mặt với một phương Tây xa lạ, và họ đang chống lại ảnh hưởng của Tây phương, trong lúc vẫn cố gắng dung hòa với những mâu thuẫn văn hóa phức tạp. Buck viết về những phụ nữ Trung Hoa và Ấn Ðộ ở trong nước Trung Hoa và Ấn Ðộ. Trên lãnh địa riêng của chính mình, những phụ nữ châu Á này được phép làm người châu Á, và trong cung cách truyền  thống, họ làm chủ số phận của chính mình. Bối cảnh đó đặt những nhân vật nữ của Buck tách khỏi những phụ nữ Mỹ gốc Á đương đại phải thật sự sống một vai trò hai mặt,  tách hẳn khỏi cái nôi văn hóa của xứ mẹ.

Bởi lẽ những nhân vật của Madam Buck được miêu tả trên lãnh địa của chính mình, họ không cần thiết phải đại diện cái hội chứng mà bây giờ tôi gọi là “phụ nữ giữa hai thế giới.” Không giống những nhân vật nữ châu Á của Buck, được cơ hội  chống lại một phương Tây đang xâm nhập, những phụ nữ gốc Á ngày nay ở Mỹ lại phải đóng vai trò xâm nhập. Họ phải phá bỏ định kiến của đám đông bằng cách tự chứng minh rằng bản thân mình là một hữu thể khác biệt với định kiến. Sau đó họ lại phải mở một cánh cửa (hay đúng ra tôi nên nói là phá bức tường bằng đá  (nhìn thấy được) hoặc trần nhà bằng kính (không nhìn thấy được) để tìm lối đi, dẫn họ vào một thế giới không quen nhìn thấy gương mặt người châu Á dưới bất cứ hình thức nào, chứ đừng nói chi đến việc nhìn gương mặt châu Á theo định kiến. Khá thường xuyên, định kiến được sinh ra, không những bằng suy nghĩ định khuôn sẵn, dễ chuyển biến thành những thiên lệch có ý thức hoặc vô ý thức, mà định kiến còn được nuôi dưỡng bởi sự thiếu hiểu biết mà nhiều nhà văn gọi là “xuẩn động,” vì đám đông không có khả năng hay sự tò mò đủ để nhìn sâu vào một sự vật mà bề ngoài quá khác lạ so với kinh nghiệm hằng ngày, đến nỗi sự kỳ bí khó hiểu của nó trở thành… một đe dọa đầy nguy hiểm cho thực tại.  Hoặc giả đám đông quay mặt làm ngơ trước cái vật thể họ không hiểu được, cho nên nhu cầu của vật thể ấy coi như… không có!

Tiểu thuyết gia Graham Greene miêu tả khía cạnh định kiến này trong cuốn tiểu thuyết nổi tiếng của ông, “Người Mỹ Trầm Lặng.” (Các nhà phê bình xếp hạng tiểu thuyết này như một dự báo tiên tri về hậu quả việc người Mỹ can thiệp vào Việt Nam, tiên tri kết cuộc người Mỹ sẽ chết ở Việt Nam, hai thập niên trước khi chiến tranh chấm dứt).

Thông điệp về chính trị của Greene mang hương vị một cuộc tình tay ba giữa một cô gái Việt Nam rất trẻ, một nhà báo Anh tuổi trung niên, và một nhà ngoại giao Mỹ trẻ trung. Tôi xin gọi sự miêu tả của Greene về người phụ nữ Việt Nam – trọng tâm của cuộc tình tay ba – là  “miêu tả bằng cách không miêu tả.” Nhân vật và tính cách của cô gái trẻ Việt Nam được miêu tả hoàn toàn qua những suy nghĩ và các cuộc nói chuyện giữa hai người đàn ông yêu nàng. Ðể giới thiệu nhân vật, Greene viết bằng lối nhạo báng: “Tên cô là Phượng, hay Phoenix – Phượng Hoàng, nhưng ngày nay, chả có gì quá tuyệt vời, vì con chim Phượng chẳng bao giờ có thể tung cánh bay lên từ một đống tro tàn.” Thế giới nội tâm của Phượng là cả một vòm bí mật trước mắt hai người yêu cô, cho nên cũng trở thành bí mật trước mắt  độc giả. Hai chàng của nàng, một già một trẻ, một Mỹ một Anh, đều hướng tâm trí vào nàng, quyết định theo lăng kính của họ những gì họ cho là nhu cầu của nàng. Nàng rất ít nói.  Gần như không biết nói. Diễn đạt của nàng gồm một vài từ, vài câu ngắn tiếng Pháp “comment” (thế nào, cái gì), “enchante” (vui vẻ, vui thích), “Je ne comprend pas” (em không hiểu).  Sinh hoạt của nàng gồm có việc ngồi chơi ở quán bán sữa, đi xem  phim Pháp, coi các cuốn sách ảnh về hoàng gia Anh, mồi thuốc phiện cho người tình Ăng-lê, và sẵn sàng cởi cái quần lụa đen rất nhiều lần ngay cả khi chưa được yêu cầu. Biểu lộ suy nghĩ của nàng thường là cái chau mày hơi lâu và chăm chú (đặc biệt sau khi nghe tin người tình Mỹ của nàng đã bị ám sát), trằn trọc thâu đêm, thức giấc khi nàng vừa mơ một điềm xấu, lặng lẽ giải thích với người yêu:  “les cauchemars” (ác mộng). Vật tùy thân ít ỏi của nàng gồm mươi cái khăn quàng cổ nhiều màu để mang cho hợp với những chiếc áo dài, vài chiếc quần lụa, và có lẽ còn một vài tạp chí tiếng Pháp. Sau khi nhà ngoại giao Mỹ bị ám sát chết, Phượng trở lại với người yêu Ăng-lê, mang theo các chiếc khăn quàng và mấy cái quần lụa dài, mà Greene tả là “của hồi môn.” Tuy nhiên, nhân vật nhà báo người Anh (có lẽ là “bản ngã” của Greene) viết một bức thư gởi về người vợ Ăng Lê của mình đòi ly dị. “Chia tay với người phụ nữ này (Phượng) đối với tôi sẽ là bắt đầu cái chết.” Ở một vài đoạn trong cuốn tiểu thuyết, Greene cho rằng tình yêu của nhà báo Anh dành cho Phượng chỉ là biến dạng của thói quen nghiện hút, càng ngày càng nghiện nhiều vì nỗi cô đơn và tuổi già bất lực.

Nhân vật Phượng giống như bản chất cuộc chiến tranh Việt Nam trong con mắt của những người quan sát và can dự phương Tây. Thế giới nội tâm của Phượng không thể xuyên thấu như núi rừng nhiệt đới Việt Nam đối với quân lính Mỹ. Có lẽ Greene chủ tâm miêu tả người phụ nữ Việt Nam như một ẩn dụ về sự bí hiểm của cơ cấu chính trị bá đạo (Machiavellian) ở Việt Nam, và cuộc chiến không giải thích được, một cuộc chiến vắt kiệt và làm bàng hoàng tâm trí người Mỹ.

Xét từng trường hợp cá nhân, những phụ nữ châu Á xuất sắc khác thường đã làm đảo lộn định kiến. Trong những ngày đầu là sinh viên báo chí năm 1976, tôi thường khâm phục nữ phóng viên truyền hình Connie Chung trong những bản tin màn ảnh buổi sáng. Bà Chung lập thân như một phụ nữ có nghề chuyên môn tiêu biểu cho nước Mỹ trong các thập niên 1970-90, một  nhà  báo thành đạt trong giới truyền thanh truyền hình (có  lần  Chung đã là người cạnh tranh chính với Barbara Walters): một  phụ nữ xinh đẹp có tư cách đứng đắn và ăn bận nề nếp phù hợp với vai trò công việc, đủ tầm để kết hôn với một người đàn ông thành công tương tự; lại quyết định chậm sinh con. Cộng thêm những gì có vẻ là một cá tính văn hóa rất mạnh mẽ – tôi đọc đâu đó trong một cuộc phỏng vấn thời gian đầu khởi nghiệp của bà, Connie Chung có lần nói với báo chí kèm theo một nụ cười: “Tôi chỉ là một cô gái Trung Hoa dễ thương.”

Trong các thập niên 70, 80, và 90 của thế kỷ 20, một triệu người chỉ có một Connie Chung. Nhiều phụ nữ chuyên môn khác gốc châu Á giẫm chân tại chỗ mà không có lấy một vinh quang, nỗi đau và chiến đấu của họ không ai biết tới. Sau cùng, họ được cho là những nữ anh hùng châu Á, sinh ra với tố chất phi thường là cam chịu số phận, hy sinh khi được đòi hỏi vì quy tắc ứng xử, miệt mài với những nỗi đau, tận tụy không một chút băn khoăn, chỉ có âm thầm nuốt nước mắt vào lòng. Những người châu Á, thông thường được gọi là “thiểu số thầm lặng,” việc lên tiếng trước công chúng không phải là đặc trưng văn hóa được ưa chuộng trong truyền thống phương Ðông – Chúng tôi thậm chí không được hét to, đòi hỏi hay đánh nhau với ai!!!  Ngay cả chiến trường Việt Nam cũng được mệnh danh là một cuộc chiến tranh du kích, cho dù vũ khí Nga Tầu Mỹ! Một người phụ nữ châu Á đầy tham vọng theo truyền thống thì phải buông rèm nhiếp chính, đứng sau một người đàn ông “bù nhìn,” qua hình ảnh đó mà hợp thức hóa sự hiện diện quyền lực của người phụ nữ đứng sau rèm. Những câu chuyện tương tự phản ảnh cách thức như vậy nhằm kéo bè kết cánh và giở các thủ đoạn, thí dụ như trường hợp Thái Hậu Võ Tắc Thiên nhà Ðường.

Từ thập niên 1950 và 1960, sau thời của người nhận giải Nobel Pearl S. Buck, hàng chục thập niên trôi qua không có lấy một tác phẩm văn chương tầm cỡ tập trung về người phụ nữ châu Á (mãi cho đến năm 2015 thì giải Pulitzer trao cho người gốc Việt đầu tiên lại là tiểu thuyết về nhân vật đàn ông, cái gì cũng làm đúng y theo tiến trình đàn ông Việt tỵ nạn vào nước Mỹ đã hay có thể làm: gián điệp nhị trùng ở miền Nam, con lai Pháp, thuyền nhân, đóng phim Hollywood theo Francis Coppola, kháng chiến Hoàng Cơ Minh, Việt Kiều, rồi vào tù, ôi thôi tất cả không thiếu cái gì, chỉ không ứng cử, thưa kiện, đi lính Mỹ tác chiến bên Trung Ðông, hay làm luật sư, bác sĩ, thẩm phán để đem tiền bạc chức phận cho bản thân và hãnh diện cho cha mẹ, mà thôi!!!).

Tuy nhiên, ở thập niên 80, nỗi trăn trở của người phụ nữ Mỹ gốc Á – tiến thoái lưỡng nan trong cuộc sống giữa hai nền văn hóa, bị ám ảnh bởi những bóng ma quá khứ khi lớn lên trên nước Mỹ –  đã bắt đầu được biểu hiện. Thập niên  ấy sản sinh ra hai nhà văn nữ gốc Á, những cuốn sách đầu tiên của mỗi người lập tức chiếm danh sách tác phẩm bán chạy nhất trên thị trường chữ nghĩa của Mỹ. Tác giả Maxine Hong Kingston và Amy Tan là hai phụ nữ di dân gốc Hoa thế hệ thứ hai. Miêu tả quan hệ của họ với người mẹ, người dì, với anh chị em họ, và toàn bộ thế hệ những người phụ nữ di dân gốc Á đầu tiên bị trầm cảm, đè nén, hoài niệm quá khứ, hai nhà văn này phóng chiếu trải nghiệm người Mỹ gốc Á vào dòng chính nước Mỹ.

Có lẽ sự thành công của những nhà văn hiếm hoi này có cái gì đó liên quan tới sự kiện sau đây: tính đa dạng tức là diversity đã trở thành “thời thượng” ở nước Mỹ đương đại, phần cuối thế kỷ thứ 20. (Lấy ví dụ, năm 1990, Barbara Bush phát biểu về tính đa dạng diversity trong một bài diễn văn quan trọng, công khai gây nhiều tranh cãi ở đại học Wellesley, một đại học nổi tiếng dành cho các nữ sinh viên ưu tú). Hoặc có lẽ, thành công của Kingston và Tan trong dòng chính chắc phải có cái gì liên quan với sự kiện thương mại thế giới ở vòng đai Thái Bình Dương đã trở nên càng ngày càng quan trọng sau khi Nixon đi Trung Quốc, và do đó, có nhu cầu hiểu biết các cô cậu Thái Bình Dương ở quê nhà, trong lòng nước Mỹ. Có lẽ các thành công về văn chương này minh họa rằng cộng đồng Mỹ gốc Á đang dần dần đảo ngược hình ảnh “thiểu số yên lặng.” Hoặc là, có lẽ Kingson và Tan thành công chỉ vì họ diễn đạt những cảm xúc và trải nghiệm nhân văn phổ quát làm lay động trái tim con người –- các vấn đề như quan hệ giữa mẹ và con, khủng hoảng bản sắc, quá khứ và hiện tại, đấu tranh của con người “mắc kẹt” ở khoảng giữa tranh tối tranh sáng – tất cả các “hội chứng” này đã lên tiếng khẩn khoản khắp nơi, bất kể màu da hay giới tính.

Nhưng, những diễn tả văn chương về những trải nghiệm đau đớn của Kingston và Tan không thay thế được một cấu trúc hỗ trợ có hệ thống, thiếu vắng trầm trọng trong đời sống các nhà chuyên môn nữ gốc Á phổ quát, những người thường bị lãng quên bởi dòng chính nước Mỹ hậu bán thế kỷ thứ 20.

Trong những năm cuối thập niên 1980, hai tờ báo chuyên môn American Lawyer và National Lawyer phát hành các bản khảo sát của mình về cơ cấu chủng tộc và tỷ lệ nhân viên thiểu số của các tổ hợp luật danh tiếng trên toàn nước. Tỷ lệ các luật sư nữ gốc Á nằm trong các bộ phận đầu não này là một con số đáng buồn: 0.1 phần trăm. Tôi cũng không lấy làm ngạc nhiên nếu tỷ lệ phần trăm phụ nữ gốc Á nằm trong đầu não những chức vụ quản lý các công ty Fortune 500 ở Mỹ sẽ rất nhỏ nếu không muốn nói là gần như không có. Những gương mặt nữ gốc Á có lẽ thường được thấy trong một số đơn vị khác nhau, thường là ngành quản lý cấp trung, hay các vị trí thuần về kỹ thuật và khoa học trong thế giới thương trường tư nhân.

Trong thập niên 1980, về lĩnh vực chính trị của Washington, chính quyền Bush vinh danh hai gương mặt nữ gốc Á: Chủ tịch Uỷ ban liên bang giám sát thị trường đầu tư các sản phẩm tiêu thụ (CFTC) Wendy Graham, và Bộ trưởng bộ Lao Ðộng Elain Chao, người sau đó được bổ nhiệm đứng đầu Peace Corps).  Cả hai bà đều lấy chồng là chính trị gia thủ cựu danh giá trong dòng chính, ở ngoài cộng đồng thiểu số của hai bà. Không có phụ nữ gốc Á nào giữ vai trò gì quan trọng trong hành chánh của chính phủ Clinton và Obama ở mức tổng hay bộ trưởng, dù rằng Obama bổ nhiệm bà Nguyễn Hồng Ngọc (Jacqueline Nguyen) nữ thẩm phán liên bang gốc Việt đầu tiên (18 năm sau khi Thị Trưởng Houston bổ nhiệm nữ thẩm phán gốc Việt đầu tiên vào toà án thành phố cho tiểu bang Texas). Bà Elaine Chao, bắt đầu sự nghiệp chính trị qua học bổng chuyên viên Toà Bạch Ốc (White House Fellowship) dưới thời chính phủ Reagan, hiện nay là khuôn mặt phụ nữ gốc Á độc nhất của chính phủ Trump trong địa vị Bộ Trưởng Giao Thông. Và chính bà cũng đã từng là tâm điểm gây ra bàn cãi chính trị trong dòng chính về vấn đề đạo đức nghề nghiệp.

Nói tóm lại, ở hậu bán thế kỷ thứ 20, phụ nữ gốc Á thành công trong nghề nghiệp tạo được cảm hứng thành đạt cho thế hệ mai sau, nhưng có thể lại bị chính cộng đồng thiểu số của họ buộc phải chấp nhận lối sống, triết lý, cung cách ứng xử, xa lạ với dòng chính, hoặc bị thế giới chuyên môn của dòng chính bắt đi ngược lại truyền thống của thiểu số bảo thủ tiêu biểu cho cội nguồn.

Thông thường, những phụ nữ này hoặc được gắn cái danh đã vượt khỏi tầm văn hóa, hoặc bị kết án đã từ bỏ cội nguồn, hoặc cả hai. Một khi mục tiêu nghề nghiệp chuyên môn của họ đã được thực hiện, thì những phụ nữ tiên phong này thường được cộng đồng thiểu số thán phục, nhưng trong cái vòng gắn bó ấy, họ lại bị người khác e dè và trở thành đối tượng cho sự tò mò, soi mói, hay đố kỵ, ganh tị, dè bỉu. Ngay cả khi mạng lưới ủng hộ bắt đầu được hình thành, những vấn đề được bàn thảo thường chỉ tập trung chung quanh những cố gắng  chuyên môn của nghề nghiệp. Vấn đề bản sắc văn hóa và sự rối rắm sinh ra bởi những mâu thuẫn vì giá trị văn hóa xung đột, vì bản chất cá nhân hay các vấn đề  nhạy cảm khác, thường không được biết tới, hay bị bỏ qua, “phớt tỉnh” coi như không có (tình trạng tâm lý chối bỏ thực tại), nếu không nói là còn bị đem ra đàm tiếu hay dè bỉu.

… Qua đến Hòn Vọng Phu ở miền Bắc Việt Nam

Còn quá nhỏ chưa biết miền Bắc Việt Nam trước thời chiến tranh, tôi cũng vẫn được sống qua những nét đẹp phong cảnh của Bắc Việt nhờ đọc tiểu thuyết văn chương hay nghe lại những câu chuyện kể từ người lớn.

Trong những cảnh đẹp nhiều người ca tụng ở miền Bắc Việt Nam là một khối đá giống tượng một phụ nữ đang bồng con. Ðứng trên đỉnh núi hay ở đèo cao chênh vênh, bức tượng nhìn xuống vùng vịnh nối liền rừng núi với biển Ðông.  Khối đá có mặt ở đó hàng mấy trăm năm, có khi cả mấy nghìn năm. Hình như có nhiều khối đá như vậy suốt chiều dài nước Việt, ở những đường đèo hiểm trở, dù rằng khối đá nổi tiếng nhất có mặt ở vùng núi gần biên giới Hoa-Việt (Lạng Sơn/Cao Bằng, Ðồng Ðăng/Kỳ Lừa), tiêu biểu cho cuộc chiến tranh biên giới trường kỳ trong sự sống còn của lãnh thổ Việt. (Lịch sử 4000 năm của Việt Nam là lịch sử của chiến tranh, tựu trung là việc giữ nước trước sự xâm chiếm thường xuyên của phương Bắc và cuối cùng là thực dân phương Tây, và nội chiến vì sự tranh giành quyền lực).

Có truyền thuyết éo le trong kho tàng văn học dân gian Việt Nam về tảng đá này. Tôi nghĩ truyền thuyết ấy trình bày một nghịch lý tương phản với Madam Butterfly của Puccini.

Theo truyền thuyết, khối đá mang hình thể người đàn bà trước kia là một phụ nữ trẻ tuổi có chồng đi đánh giặc phương xa. Vừa nuôi nấng con, người phụ nữ vừa trông ngóng chồng mình trở về từ cuộc viễn chinh… cho đến lúc cuộc đợi chờ trở thành thiên thu, và nàng không thể ôm lấy nỗi buồn thêm nữa.

Nhưng nàng không bỏ cuộc. Vì vậy, một ngày kia, nàng ôm đứa con thơ lên một đỉnh núi, nơi nàng có thể nhìn thấy khung cảnh thuyền bè trên biển và đoàn ngựa phi băng rừng vượt núi. Người phụ nữ đứng đó, tay bồng con, trông chờ người chinh phu, dõi mắt xuống biển, lên rừng, để được trông thấy chồng trong ngày đoàn quân trở về, ca khúc khải hoàn. Ðợi chờ, đợi chờ, và đợi chờ, nàng đợi chờ mãi mãi, dạn gió, dầm mưa, dãi nắng, cả những mùa Ðông giá rét, những mùa Hè bỏng sôi. Nàng quên hết khái niệm thời gian hay ý niệm về cảnh vật chung quanh. Nàng đứng đó, ngày này qua ngày khác, tháng này qua tháng khác, năm này qua năm khác.

…khối đá cô đơn ấy trở nên trường cửu, gắn liền với lịch sử và trở thành lịch sử, trên đỉnh núi nhìn xuống biển mênh mông và núi rừng bát ngát của Việt Nam. Người Việt Nam đặt cho tảng đá cái tên “Hòn vọng phu.” Tảng đá của sự đợi chờ trong chiến tranh và tình phu phụ.

Như Madam Butterfly của Puccini, bức tượng người nữ Việt Nam là  người vợ ngóng trông, phó thác cả cuộc đời mình vào một hy vọng duy nhất: người chồng sẽ trở về. Bản chất hy vọng của nàng là sự vô vọng! Nhưng người vợ trông chồng Việt Nam vượt lên trên sức mạnh của sự hủy diệt. Cho nên nàng hóa đá.  Sự đợi chờ trống vắng khiến nàng kết tinh thành vĩnh cửu. Sự kết tinh là biểu tượng  một tinh thần quá mãnh liệt, sự bền gan đầy sức sống, đến nỗi thân xác vô thường dễ hủy hoại phải kết tinh thành hình tượng khối đá trơ gan cùng tuế nguyệt, thách thức thời gian và chịu đựng mọi thử thách trong không gian, duy trì trước hoàn cảnh tuyệt vọng. Nguyện ước của người phụ nữ trông chồng trở nên trường tồn và bất tử, và như thế tinh thần của nàng cũng trường tồn và bất tử.

Butterfly có thể biến mình trở thành một mơ tưởng, một hình ảnh sao chép lãng mạn của người đàn bà bạc mệnh. Butterfly đã đầu hàng, buông xuôi và tự trả thù bằng cách hủy hoại chính cuộc đời mình, và để bảo đảm được số phần của đứa con do nàng xếp đặt. Sự quyên sinh của nàng là cách thể hiện lòng tự tôn để đối phó với nghịch cảnh, và để tỏ bày lòng khao khát một kết cuộc cao quý và sự toàn mỹ, để giữ lấy cái ảo vọng tình yêu và một tinh thần “tử vì đạo,” làm chủ đích của đời mình. Chết đi, nàng buông xuôi. Nhưng ở hình ảnh Hòn Vọng Phu của Việt Nam, không có sự đầu hàng, buông xuôi, không có khái niệm gì về một mơ tưởng do lòng tự tôn. Thay vào đó, ở Hòn Vọng Phu Việt Nam tồn tại một ý chí bất diệt. Tảng đá sừng sững trước thời gian và không gian, năm này qua tháng khác.

Có rất nhiều cách để phân biệt Butterfly và Hòn Vọng Phu Việt Nam. Ví dụ, Butterfly là một nạn nhân tàn bạo của sự bội phản và bỏ rơi của tình trường, nhưng  Hòn Vọng Phu Việt Nam thì khác.  Hòn Vọng Phu chịu sự chia cách vì sứ mạng thiêng liêng của dân tộc phải trường tồn trước ngoại xâm.  Nàng không tự tử, mà nàng… hoá đá như đã được tạc tượng bởi thượng đế trong cảnh đợi chờ mỏi mòn tượng trưng cho ý chí của nhân loại. Ðồng hoá hay so sánh và đối chiếu,  Butterfly và Hòn Vọng Phu Việt Nam có thể dấy lên nhiều tranh cãi, dựa vào sự  mổ xẻ  văn hóa Nhật Bản vốn đề cao danh dự qua cái chết, đối nghịch với văn hóa Việt Nam vốn trân quý cuộc sống mang giá trị lịch sử của nền tảng phấn đấu để trường tồn.

Nhưng so sánh hợp lý không phải là trọng tâm của tôi ở đây. Mục đích của tôi không phải để phân biệt văn hóa Việt Nam với văn hóa và lối sống Nhật Bản, trong đó sự tự tử của người Nhật mang ý nghĩa văn hóa như  một hành động cao cả và can đảm. Tôi mượn hình ảnh Cánh Bướm, Butterfly của Puccini, đơn giản chỉ để nêu lên câu hỏi này: Chúng ta, những người phụ nữ Mỹ gốc Á của thế kỷ 20 và 21, có mang canh cánh trong tâm hồn, trong trái tim mình một Cánh Bướm nhỏ, bởi vì hình ảnh con Bướm luôn luôn là kiểu cách thế giới phương Tây nhìn chúng ta, và có lẽ đó cũng là kiểu cách cộng đồng chúng ta đòi hỏi, hay cách ta tự nhìn lấy mình, từ lúc nền văn hóa chúng ta lần đầu tiên mở cửa cho  phương Tây nhìn vào qua sự chủ quan của họ?

Là người Mỹ gốc Á, chúng ta trở thành cầu nối và là chất xúc tác giữa  Ðông và  Tây. Nếu có một giá trị Mỹ mà thế giới đòi hỏi và thèm muốn, đó là giá trị của sự tự do chọn lựa. Trong thế giới mới sáng tạo của mình, ở đó phương Ðông và phương Tây phải đón nhận sự trao đổi và giao hòa thì chính Butterfly, con Bướm, là người sẽ vẽ lại hình ảnh, viết lại kết cuộc, và định nghĩa số mệnh của chính mình.

Thế giới của nàng không còn là một cửa sổ nên thơ hình bán nguyệt nhìn ra Thái Bình Dương, nơi nàng ngồi lặng lẽ, mong chờ một chiếc thuyền sẽ không bao giờ xuất hiện… (Hay một khi xuất hiện, thì chiếc thuyền sẽ báo hiệu cái chết của nàng!). Cánh Bướm có thể không còn phải đóng vai trò một ước mơ tuyệt vọng của một thế giới lễ nghi, truyền thống, nơi mà  định kiến vững chắc và ăn sâu đến nỗi không thể bị phá vỡ – một thế giới mà trong đó phẩm hạnh của nàng được đo lường bằng những hy sinh nàng phải làm vì các nguyên tắc sống không phải tạo ra cho nàng, bởi nàng, hay vì nàng…

Tối cần thiết, thế giới đó phải thay đổi bởi lẽ Cánh Bướm, Butterfly, nếu đúng là nàng, sẽ phải học cách bay đi thay vì ngồi đó đợi chờ trong yên lặng, rồi trở thành nạn nhân cho nỗi cô độc của sự đợi chờ vĩnh viễn… Những đứa cháu và người thân còn trẻ của tôi ở California lớn lên trong một thế giới khác xa những gì những người mẹ của họ đối mặt hàng chục thập niên trước. Thế hệ mới  gánh vác những cố gắng nghề nghiệp chuyên môn cho bản thân, có lẽ vẫn đang chiến đấu trong sự xung đột giữa các nền văn hóa, vì thế kỷ vẫn còn là một  thế giới chưa hoàn hảo…Những người trẻ này vẫn còn phải chiến đấu để có cùng một ý thức bản sắc mà tôi đã phải kiếm tìm suốt những năm  cuối của  thế kỷ 20, và nếu tôi phải cho họ lời khuyên, đơn giản tôi sẽ nói thế này:

“Là  một phụ nữ Mỹ gốc Việt thế hệ tiên phong trong một thế giới không phải phương Ðông của mẹ tôi, tôi đã phải khám phá ra rằng thế giới  phụ hệ bao quanh tôi đã xác định tôi như một cánh bướm có số phận không may, tôi phải hy sinh cho người khác, luôn luôn và luôn luôn, tôi sẽ không gồng mình để thực hiện lời nguyền về số phận nữ nhi bi thảm để làm hoàn hảo cái mơ tưởng mà văn hoá cội nguồn buộc tôi phải tạo nên. Nếu tôi phải chiến đấu để không còn là một cánh bướm sẽ phải…tự tử vì hoàn cảnh ngoài tầm tay với, tôi vẫn phải sống để gánh lấy những trọng trách nhằm thay đổi một hiện thực dường như là vô vọng, tôi sẽ nhìn đến sức mạnh cùng sự kiên gan bền bỉ của Hòn Vọng Phu Việt Nam, và tôi sẽ phải nói câu:

“Đôi khi, sự bất tử chỉ có thể xảy ra khi khí phách con người phải đọ sức với sự vô vọng của các nỗ lực tinh thần, để tuyệt vọng có thể trở thành hy vọng.”

WND

copyrighted 1996, 2019

Thành kính và trìu mến dâng lên hương hồn mẹ tôi Giáo Sư Việt Văn Nguyễn Thị Từ Nguyên 

Affectionately dedicated to my mother, who taught me literature and bought me Pearl S. Buck’s East Wind West Wind, the Vietnamese translation, before I turned 12. Not only did she give me the book, she also read it with me. She also bought me Buom Khuya, the Night Butterfly, by Tuy Hong, before I turned 16.  My mother created the writer in me, and taught me conformity as well as distinction and contrast.

Loading

http://www.bytca.sk/slot-deposit/

https://np3.com.br/css/slot-deposit-pulsa/

https://wolf-gold.digitalcommons.nc.gov/

https://wild-west-gold.digitalcommons.nc.gov/

https://the-dog-house.digitalcommons.nc.gov/

https://sword-of-ares.digitalcommons.nc.gov/

https://sweet-bonanza.digitalcommons.nc.gov/

https://sugar-rush.digitalcommons.nc.gov/

https://starlight-princess.digitalcommons.nc.gov/

https://starlight-christmas.digitalcommons.nc.gov/

https://rabbit-garden.digitalcommons.nc.gov/

https://pyramid-bonanza.digitalcommons.nc.gov/

https://power-of-thor.digitalcommons.nc.gov/

https://jokers-jewels.digitalcommons.nc.gov/

https://hand-of-midas.digitalcommons.nc.gov/

https://great-rhino.digitalcommons.nc.gov/

https://gates-of-olympus.digitalcommons.nc.gov/

https://gates-of-gatot-kaca.digitalcommons.nc.gov/

https://fruit-party.digitalcommons.nc.gov/

https://fire88.digitalcommons.nc.gov/

https://bonanza-gold.digitalcommons.nc.gov/

https://np3.com.br/css/sbobet/

https://www.dongnam.com.vn/slot-deposit-pulsa/

http://paradisophilly.com/

https://www.portlandpulse.org/

slot777

https://collab.freelancersunion.org/

https://wisdom-of-athena.tinambaturf.com.au/

https://starlight-princess.tinambaturf.com.au/

https://mochimon.tinambaturf.com.au/

https://jurrasic-kingdom.tinambaturf.com.au/

https://hightidekinsale.com/wp-includes/sbobet/

https://advantagehomecare.com/wp-includes/sbobet/

https://micg-adventist.org/wp-includes/slot-gacor/

http://nvzprd-agentmanifest.ivanticloud.com/

daftar sbobet

https://brentfordgymnasticsclub.com/wp-includes/sbobet/

https://jenniferallenlaw.com/wp-includes/sbobet/

Sbobet Mobile

slot tanpa potongan pulsa

slot tanpa potongan dana

https://aadun.um.edu.my/

https://dmd.dourados.ms.gov.br/app/rtp-slot-gacor/

https://human.rru.ac.th/wp-content/uploads/2023/slot-depo25-bonus25/

https://progresshotel.be/wp-content/slot777-slot-bonus/

https://podcast.peugeot.fr/

https://ci-csd.everymatrix.com/

https://beta.media.nhra.com/

https://pgdownloads.enterprisedb.com/

https://www.mortgageebill.huntington.com/

https://tudienthoai.com/wp-includes/slot-depo25-bonus25/

http://rphyardcarelandscape.com/language/slot-deposit-pulsa/

https://amss.cme2.go.th/css/rtp-live-slot-gacor/

sbobet88

slot dana

slot dana

slot dana

https://songpeuy.go.th/uploads/services/slot-online-deposit-pulsa/

https://fundacjaneli.org/wp-content/slot-deposit-pulsa-gacor/

https://ssk-cmt.com/uploads/services/slot-deposit-pulsa/

https://thai-hub.com/wp-includes/ID3/slot88-deposit-pulsa-tanpa-potongan/

slot deposit pulsa

slot deposit pulsa

slot deposit pulsa

slot deposit pulsa

slot pulsa

slot dana

slot dana

sbobet

bonus new member 100

slot via dana

https://mahjong-ways.digitalcommons.nc.gov/

https://depo25-bonus25.digitalcommons.nc.gov/

https://slot-linkaja.digitalcommons.nc.gov/

https://slot-gopay.digitalcommons.nc.gov/

https://slot-ovo.digitalcommons.nc.gov/

mahjong slot

mahjong slot

slot pulsa

slot deposit gopay

deposit pulsa

slot deposit gopay

deposit pulsa

slot mahjong

slot mahjong

deposit pulsa tanpa potongan

https://bergeijk-centraal.nl/wp-includes/slot-deposit-gopay/

https://www.thecrownpro.com/wp-content/slot-deposit-pulsa/

https://regalosdulcesadomicilio.cl/wp-includes/slot-deposit-gopay/

https://monsiniprom.com/wp-includes/slot-deposit-pulsa/

slot pulsa

slot pulsa

slot dana

slot pulsa

slot pulsa

slot kamboja

slot pulsa

depo 25 bonus 25

depo 25 bonus 25

slot pulsa

slot dana

slot pulsa

rtp slot

slot deposit gopay

demo slot pragmatic

bonus new member

slot server thailand

sbobet88

slotdeposit dana

sbobet88

slot pulsa tanpa potongan

slot pulsa tanpa potongan

https://mail.townofkentny.gov/wp-includes/slot-deposit-pulsa/

slot pulsa

slot pulsa

slot pulsa

slot pulsa

slot pulsa

slot pulsa

slot pulsa

slot dana

slot thailand

slot garansi uang kembali

slot dana

slot deposit pulsa

depo 25 bonus 25

kamboja slot

slot deposit dana

slot deposit dana

https://osteopatia.club/wp-includes/slot-pulsa/

https://www.kyl.com/wp-includes/slot-pulsa/

https://human.rru.ac.th/wp-content/uploads/2023/slot-vietnam/

https://www.soda-shop.eu/wp-includes/slot-vietnam/

slot pulsa

slot dana

https://vortexconsultingohio.com/wp-content/slot-bonus/

https://chemicalfrog.com/wp-content/slot-dana/

https://www.och.org/wp-includes/deposit-pulsa-tanpa-potongan/

https://tidytea.com/wp-includes/slot-pulsa/

https://houseofgabriel.com/wp-includes/pomo/depo-25-bonus-25/

slot pulsa

slot pulsa

slot pulsa

http://www.anticaukuleleria.com/slot-server-thailand/

https://showersealed.com.au/wp-content/slot-pulsa/

https://ratlscontracting.com/wp-content/slot-dana/

slot kamboja

slot server thailand no 1

https://pitek.vn/wp-includes/slot-pulsa/

https://www.paradizenutrition.com/slot777/

https://gbict.fscode.kr/wp-content/slot-thailand/

https://cleercaninedt.com/wp-content/slot-dana/

IDN Poker

slot dana

slot deposit pulsa

slot deposit pulsa

slot deposit pulsa

slot deposit pulsa

slot deposit pulsa

slot deposit pulsa

slot deposit gopay

sbobet88

slot pragmatic play

daftar slot777

daftar slot777

slot server myanmar

slot bonus new member

slot bonus new member

judi bola

slot777

jurassic kingdom

judi bola

https://bergeijk-centraal.nl/wp-content/slot777/

rtp slot

slot server thailand

slot pragmatic play

slot deposit pulsa

bonus new member

slot deposit dana

rtp live

slot deposit pulsa

idn play

Sbobet88

https://mahjong-ways.zapatapremium.com.br/

slot777 gacor

slot777

slot pulsa

https://slot88.zapatapremium.com.br/

slot pulsa

https://slot777.jikuangola.org/

slot777

slot deposit pulsa

slot deposit pulsa

slot deposit pulsa

slot deposit pulsa

slot deposit pulsa

slot deposit pulsa

slot deposit pulsa

slot deposit pulsa

%d bloggers like this:
Skip to toolbar

Slot Online Gampang Menang

Slot Online Gampang Menang

Slot Online Gampang Menang

Slot Online Gampang Menang

Slot Online Gampang Menang

Slot Online Gampang Menang

Slot Online Gampang Menang

Slot Online Gampang Menang

sbobet piala dunia

sbobet piala dunia

sbobet piala dunia

sbobet piala dunia

sbobet piala dunia

sbobet piala dunia

sbobet piala dunia

sbobet piala dunia

sbobet piala dunia

sbobet piala dunia

sbobet piala dunia

sbobet piala dunia

sbobet piala dunia

sbobet piala dunia

sbobet piala dunia

sbobet piala dunia

sbobet piala dunia

sbobet piala dunia

sbobet piala dunia

sbobet piala dunia

sbobet piala dunia

bonus new member 100 di awal

bonus new member 100 di awal

bonus new member 100 di awal

bonus new member 100 di awal

bonus new member 100 di awal

bonus new member 100 di awal

bonus new member 100 di awal

bonus new member 100 di awal

bonus new member 100 di awal

bonus new member 100 di awal

bonus new member 100 di awal

bonus new member 100 di awal

bonus new member 100 di awal

bonus new member 100 di awal

https://www.dcosmeticclinics.com.au/wp-includes/sbobet/

https://thetastesoflife.com/wp-includes/sbobet/

https://www.townshipofsugargrove.com/wp-includes/slot-gacor/

https://texasmamaboutique.com/wp-includes/slot-gacor/

https://bizu-me.com/wp-includes/slot-gacor/

https://tiketa.co.za/wp-includes/slot-gacor/

slot gacor

slot gacor

slot gacor

sbobet88

bonus new member 100

sbobet

sbobet88

http://phuonghoangschool.com/wp-content/

Situs Slot Gacor

Situs Slot Gacor

Situs Slot Gacor

https://hrtradio.com/wp-includes/rtp-slot/

https://www.doccsaapucv.cl/wp-includes/slot-gacor/

situs slot gacor

slot pulsa

slot bonus new member 100 di awal

slot deposit pulsa

slot gacor

slot bonus

slot gacor

rtp slot

slot gacor

https://interwood.in/slot-demo/

slot online

rtp live

rtp slot

Slot Demo

Slot Gacor

slot bonus

rtp live

https://aftp.in/wp-content/Slot-Gacor-Maxwin/

ceme online

slot dana

slot demo

slot gacor

slot deposit pulsa tanpa potongan

slot bonus new member

slot demo

slot bonus

slot pulsa

https://ecoshare.vn/wp-includes/slot-ovo/

https://authorcarolsawyer.com/wp-content/slot-gacor/

https://voguecollection.pk/slot-gacor/

judi slot online jackpot terbesar

RTP Slot

situs judi slot terbaik dan terpercaya no.1

https://skyf.co/community/profile/situs-slot-gacor-new-member-100-di-awal/

slot pulsa

slot pulsa

slot bonus

slot bonus 100 to 3x

https://gemabrazil.com/wp-includes/slot-bonus-100/

https://elegamingle.com/wp-content/slot-nexus-engine/

slot deposit pulsa

slot deposit pulsa

https://asbcred.com.br/wp-content/slot-pulsa/

https://usasgvote.usa.edu.ph/js/slot-bonus/

slot deposit dana

slot deposit dana

slot deposit dana

slot deposit dana

server nexus

slot tanpa potongan pulsa

slot tanpa potongan pulsa

slot dana

rtp

dana

slot online deposit pulsa

slot bonus

slot gacor hari ini

slot online deposit dana

login sbobet88

slot deposit dana

slot deposit dana

slot pulsa

https://thesmartoilet.com/wp-includes/slot-deposit-pulsa/

https://choviettrantran.com/wp-includes/slot-deposit-pulsa/

https://kreativszepsegszalon.hu/wp-includes/slot-deposit-pulsa/

https://www.muaythaionline.org/wp-includes/slot-deposit-pulsa/

slot server luar

sbobet

slot server kamboja