Một bạn trẻ cắc cớ hỏi tôi: “Năm nay cụ đã gần 90 tuổi rồi, thì ngày nào mà cụ cho là ngày buồn nhất trong đời cụ?” Tôi đã trả lời ngay rằng: “Ngày 30 tháng 04 năm 1975” là ngày buồn nhất của đời tôi.
Cho đến lúc này, tôi đã bước qua ngưỡng cửa không phải là “thất thập” mà là “cửu thập”, song mỗi khi kiểm nghiệm lại những ngày buồn trong đời, tôi thấy ngày 30/04/1975 là ngày buồn nhất của đời tôi. Từ ngày ấy đến nay đã gần 50 năm trôi qua, song ký ức của tôi về ngày hôm ấy dường như vẫn còn canh cánh trong tôi.
Ngày ấy tôi là một sĩ quan của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa và đơn vị mà tôi phục vụ là Tiểu Khu Châu Đốc. Ngày 30/04/1975 tại thị xã Châu Đốc là một ngày khá đẹp trời. Ánh nắng chan hòa trải dài trên dòng sông Hậu. Chim nhẩy nhót líu lo trên những chòm cây. Bướm lượn tung tăng trên những đám cỏ. Xe cộ tấp nập ngược xuôi trên con đường Gia Long, song song với dòng sông Hậu, băng ngang qua Tòa Hành Chánh tỉnh, rồi xuyên vào khu phố chợ sầm uất nhất của Thị Xã.
Khoảng 9 giờ sáng hôm ấy, sau một đêm ứng chiến tại nhiệm sở, Trung Tâm Điều Hợp Bình Định và Phát Triển Tỉnh & Tiểu Khu Châu Đốc, nằm trong khuôn viên Tòa Hành Chánh Tỉnh, tôi trở về nhà riêng ở khu cư xá sĩ quan trên đường Gia Long để ăn sáng. Bước vào nhà là tôi mở ngay radio để nghe tin tức chiến sự. Ít phút sau đó, Đài Phát Thanh Sài gòn thông báo: “Xin chú ý, xin chú ý, xin đồng bào chú ý! Tổng Thống Dương Văn Minh sẽ ngỏ lời cùng đồng bào. Xin theo dõi.”
Dựa vào tình hình chiến sự lúc ấy, tôi phỏng đoán vị Tân Tổng Thống cũng là Tân Tổng Tư Lệnh Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa sẽ tuyên bố TỔ QUỐC LÂM NGUY, rồi nhân đấy kêu gọi toàn dân và toàn quân chiến đấu đến giọt máu cuối cùng. Ngồi vào bàn ăn, vừa ăn vừa chờ đợi đón nhận những lời “gang thép” của vị Tân Tổng Tư Lệnh. Ít phút sau từ chiếc radio phát ra: “Tổng Thống chính quyền Sài Gòn kêu gọi Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà hạ vũ khí, đầu hàng vô điều kiện quân Giải Phóng Miền Nam Việt Nam. Tôi tuyên bố, chính quyền Saigòn từ trung ương đến điạ phương, trao lại cho chính quyền Cách Mạng Lâm Thời Miền Nam Việt Nam.”
Thật không ngờ lại là lệnh buông súng đầu hàng vô điều kiện, khiến tôi ngẩn ngơ, ngỡ ngàng, hụt hẫng, chới với. Miếng bánh mì đang nhai trong miệng, bỗng mắc nghẹn nơi cuống họng. Miệng tôi lẩm bẩm: “Không! không! không thể đầu hàng như thế được”. Tôi đứng bật dậy, lảo đảo bước tới chiếc giường, thẩy mình lên đó, đau đớn, buồn bã, vật vã, rã rời.
Khi bố tôi mất vào năm 1957 và mẹ tôi từ trần vào năm 1962, tôi rất buồn, buồn đến nỗi, ngày quên ăn, đêm quên ngủ, nhưng tôi chưa buồn đến nỗi muốn quyên sinh. Ngày mà người tôi yêu (không rõ người ấy có yêu tôi không) lên xe hoa về nhà chồng, tôi cũng buồn man mác, nhưng chưa buồn đến nỗi “mua ngay thuốc chuột uống cho rồi đời”. Khi thi tú tài I và II cũng như cử nhân luật I, II và III, tôi cũng hỏng thi đôi ba lần, và mỗi lần hỏng thi tôi cũng buồn lắm, nhưng chưa một lần hỏng thi nào mà tôi coi là “đệ nhất buồn” của đời tôi như cụ Tú Xương đã mô tả khi cụ hỏng thi:
“Bụng buồn còn muốn nói năng chi
Đệ nhất buồn là cái hỏng thi
Một việc văn chương thôi cũng nhảm
Trăm năm thân thế có ra gì”
Song vào ngày 30.04.1975, sau khi nghe Tổng Thống Dương Văn Minh hạ lệnh buông súng đầu hàng, tôi buồn ghê gớm, chẳng những buồn đến nỗi tan tác cả cõi lòng, mà còn buồn đễn nỗi muốn quyên sinh nữa. Giá hôm ấy tôi ở nhà một mình, chắc tôi đã kết liễu đời tôi bằng một viên đạn súng Colt mà quân đội đã cấp phát cho tôi, treo ngay ở đầu giường. Tôi có thừa can đảm cầm khẩu colt bắn một viên đạn vào đầu mình, nhưng lại thiếu can đảm làm công việc này trước mặt người vợ hiền hòa và ba đứa con còn thơ ngây của tôi.
Không buồn làm sao được, khi thấy hàng trăm ngàn người sống ở miền Nam như tôi đã không tiếc xương máu, chiến đấu chống lại Cộng Sản Bắc Việt xân lăng miền Nam, để bảo vệ nhân dân miền Nam được sống trong tự do, dân chủ, hòa bình và no ấm. Cuộc chiến đấu cao cả của hàng triệu con người quốc gia ấy đã thất bại trong đắng cay, nhục nhã, tức tưởi, ngậm ngùi. Tất cả những công lao và sự hy sinh to lớn của những người này trong đó có một phần nhỏ nhoi của tôi, bỗng tan biến vào khoảng không, như:
“Dã tràng xe cát biển Đông
Nhọc nhằn mà chẳng nên công cán gì”
Không buồn sao được, khi nhận ra rằng, cuộc sống của tôi, của vợ con tôi, của bạn bè tôi, của đồng đội tôi, của đồng bào miền Nam thân thương của tôi sắp sửa bước vào một giai đoạn cực kỳ bi thảm. Sở dĩ tôi nhận ra được điều này ngay vào ngày 30.04.1975, không phải vì tôi quá bi quan hay hoang tưởng với hiện tình miền Nam tự do đang sụp đổ trước mắt mà vì những gì chính tai tôi đã nghe, chính mắt tôi đã thấy, và chính gia đình tôi và bà con họ hàng của tôi đã phải gánh chịu, trong suốt thời gian mười năm sống ở Liên Khu Bắc Việt. Vùng này còn được gọi là vùng “kháng chiến chống Pháp” của của ông Hồ và các đồng chí của ông ở miền Bắc trước năm 1954. Vậy tôi đã thấy những gì trong thời gian hơn mười năm sống ở Liên Khu Bắc Việt, trước khi di cư vào miền Nam mà buồn đến như thế?
-Tôi đã thấy, ngay sau khi cướp được chính quyền từ tay người Nhật, ông Hồ và các đồng chí của ông đã giết một cách không thương tiếc hàng ngàn người mà họ cho là chó săn của Nhật, tay sai của Pháp, tay chân của triều đình phong kiến. Trong số này, có những nhà văn, nhà báo, nhà giáo nổi tiếng như Phạm Quỳnh năm 1945, Tạ Thu Thâu năm 1945, Dương Quảng Hàm năm 1946, Khái Hưng năm 1947 v.v…
-Tôi đã thấy ông Hồ và các đồng chí của ông bắt cóc và thủ tiêu hàng nghìn người mà họ coi là thành phần phản động, bằng nhiều hình thức vô cùng dã man tàn ác, như trói chân tay bỏ vào bao bố, hay cột vào một thanh tà-vẹt đường xe lửa, rồi thả xuống dòng sông hay ao hồ.
-Tôi đã thấy, ông Hồ và tay chân của ông bắt bớ, giam cầm và giết hại hàng trăm ngàn người được cho là đảng viên của các đảng phái quốc gia, vì cho họ là một lực lượng cản đường ngăn lối ông Hồ và đảng Cộng Sản của ông ta thực thi chế độ chế độ cộng sản ở Việt Nam. Vì lẽ đó, nên cần phải giết hết họ sớm chừng nào tốt chừng ấy, để trừ hậu họa.
-Tôi đã thấy, sau khi giành được chiến thắng quân sự ở Điện Biên Phủ, ông Hồ và các đồng chí của ông tin rằng ngày chiến thắng cuối cùng đã gần kề, nên đã cho thực thi ngay cuộc cách mạng ruộng đất: ĐÀO TẬN GỐC, TRỐC TẬN RỄ thành phần TRÍ – PHÚ – ĐỊA – HÀO. Trong cuộc cách mạng ruộng đất “Trời Long Đất Lở” này, ông Hồ và đồng bọn đã giết khoảng hai trăm ngàn Trí, Phú, Địa, Hào và tịch thu hàng triệu mẫu ruộng của họ để chia cho nông dân nghèo. Trong số nạn nhân của cuộc cách mạng ruộng đất này có gia đình tôi và thân nhân của tôi.
-Tôi đã thấy, khi được ông Hồ và đảng Cộng Sản “bố thí” một vài sào ruộng cướp được của địa chủ, đám nông dân nghèo này hồ hỡi, hân hoan, hớn hở. Song chẳng bao lâu sau khi cầy cấy như là sở hữu chủ thật sự của mảnh đất ấy, ông Hồ và đảng Cộng Sản lại buộc họ phải “cống nạp” cho Hợp Tác Xã Nông Nghiệp, rồi ban hành sắc lệnh đất đai thuộc quyền sở hữu của tập thể, của toàn dân. Người nông dân nghèo tay trắng lại trở về với trắng tay, rồi trở thành người làm công, làm thuê cho hợp tác xã, tính ngày trả công rẻ mạt, nên phải sống trong cảnh bần hàn đói rách hơn cả những ngày là tá điền cho địa chủ trước đây. Họ đã than thở việc đi làm thuê cho hợp tác xã bằng những lời lẽ vô cùng chua chát và cay đắng:
“Đi làm hợp tác hợp te
Không đủ mua vải mà che cái lờ”
Sau khi bức màn sắt tại sông Bến Hải đã thật sự buông xuống, tôi vẫn tiếp tục tìm hiểu những gì đã và đang xảy ra nơi quê cũ của tôi, qua những người vượt sông Bến Hải, và qua những tên bộ đội cộng sản Bắc Việt hồi chánh hoặc bị bắt làm tù binh, nên được biết thêm rằng:
–Sau năm 1954, ông Hồ và các đồng chí của ông đã áp dụng chế độ hộ khẩu khắc nghiệt trên toàn lãnh thổ miền Bắc để quản lý và kiểm soát khâu sản xuất và phân phối thực phẩm. Từ củ khoai lang đến củ khoai mì, từ hạt bắp đến hạt gạo, từ lạng muối tới cân đường, từ mớ rau đến ký thịt vân vân… đều do đảng và nhà nước nắm độc quyền phân phối và cung cấp lương thực cho từng đầu người trong mỗi gia đinh. Số lượng thực phẩm được cung cấp, hay phân phối, hoặc bán cho mỗi nhân khẩu hoàn toàn tùy thuộc vào sự định đoạt của đảng và nhà nước chứ không tùy thuộc vào nhu cầu thật sự của của người tiêu thụ. Vì thế gia đình nào không tuân thủ những mệnh lệnh và chỉ thị của đảng và nhà nước, thì lập tức nhà nước và đảng không cung cấp và phân phối thực phẩm nữa, họ sẽ phải chết đói mà không có lối thoát nào khác.
-Chế độ hộ khẩu đã trở thành một vũ khí vô cùng hữu hiệu của ông Hồ và các đồng chí của ông trong việc ép buộc dân chúng miền Bắc phải triệt để tuân hành tất cả những gì mà đảng cộng sản muốn người dân phải làm. Đảng gọi thì dân phải dạ; đảng bảo thì dân phải vâng. Một nhà văn miền Bắc đã ví von rằng, người miền Bắc vào những năm tháng ấy tương tự như những con chó ngoan ngoãn một mực tuân theo lời chủ: “Bảo vẫy đuôi, vẫy; bảo sủa, sủa; bảo cắn, cắn; bảo ăn cứt, ăn.”
-Một điều vô cùng đau lòng của người miền Bắc vào thời gian này là, khi con cái của họ đến tuổi nhập ngũ, chính quyền địa phương không cần nhắc nhở, mà bố mẹ của chúng tự động ép buộc con cái họ phải “hăng hái” lên đường đi làm nhiệm vụ, dù họ biết rõ rằng, con cái họ ra đi “đã mấy người trở lại”. Song đó là chuyện “hạ hồi phân giải”. Còn chuyện trước mắt là, nếu con cái họ trốn tránh nhập ngũ thì “sổ mua gạo” sẽ bị Đảng và Nhà Nước cắt ngay tức thì, và cả gia đình lớn bé già trẻ sẽ chết đói.
Vào ngày 30-04-1975, hầu hết những điều mà tôi đã thấy và đã nghe về ông Hồ và các đồng chí cộng sản của ông thực thi ở miền Bắc trước và sau năm 1945, đã lướt qua đầu tôi như một cuốn phim chiếu chậm. Hình ảnh, của cuốn phim chiếu chậm này đã bảo tôi rằng, tất cả những đường lối và chính sách mà đảng Cộng Sản Việt Nam đã thực thi ở miền Bắc sẽ được áp đặt lên đầu nhân dân miền Nam là điều chắc chắn như đinh đóng cột vào những ngày sắp tới.
Do đó tôi tin rằng, vào những ngày sau ngày 30-04-1975, những người có dính líu hay liên hệ với chính quyền Việt Nam Cộng Hòa như tôi và các bạn đồng ngũ của tôi sẽ bị thủ tiêu, giết hại hay bị tống vào những trại tù cải tạo cho chết dần chết mòn. Vợ con tôi và đồng bào miền Nam tôi sẽ khốn đốn ê chề và sẽ trở thành những con chó mới của đảng cộng sản Việt Nam. Nói một cách khác là, gia đình tôi và đồng bào miền Nam dưới vĩ tuyến 17 của tôi sẽ bắt đầu bước vào một giai đoạn khốn nạn nhất chưa từng có trong lịch sử trường tồn của dân tộc.
Sau ngày 30.04.75, không ít người từ ải Nam Quan đến mũi Cà Mau, vì nông cạn, ngây ngô, khờ khạo, đui mù, nên đã hồ hỡi, hân hoan, hớn hở, vui mừng đón chào ngày này như một ngày khải hoàn của dân tộc. Đối với tôi, đó là ngày CƯỜNG BẠO thắng CHÍ NHÂN, ngày PHI NGHĨA thắng CHÍNH NGHĨA, ngày NHÀ TAN và NƯỚC MẤT.
Ngày 30.04.1975, đối với những người có lương tri và hiểu biết ở miền Nam cũng như ở miền Bắc không thể nào coi là ngày mà toàn thể dân tộc Việt Nam, sau bao nhiêu năm hy sinh xương máu đã giành lại được độc lập và thống nhất, mà chỉ là ngày đảng Cộng Sản cướp được trọn vẹn nước Việt Nam từ ải Nam Quan đến mũi Cà Mau, sau bao nhiêu năm lợi dụng chiêu bài chống Mỹ để khai thác lòng yêu nước mù quãng và vắt ép cạn kiệt xương máu của người dân Việt để hoàn tất cuộc cách mạng dân tộc và đưa Việt Nam vào quỹ đạo Cộng Sản Quốc Tế. Nói một cách khác, ngày 30.04.1975 chỉ là ngày mà những tên Cộng Sản Việt Nam đã làm tròn được phân nửa bổn phận tay sai của chúng, đối với Cộng Sản Quốc Tế.
Ngày mà những tên Việt Cộng hồ hỡi, hân hoan dụ dỗ một đám con nít, và một đám người lớn “mù lòa” xuống đường phố hoan ca: “Như có bác Hồ trong ngày vui đại thắng” là ngày tôi đau đớn, đóng cửa ngồi khóc thầm cho số phậm hẩm hiu đen như mõm chó của cá nhân tôi, của gia đình tôi và đồng bào miền Nam của tôi và của cả dân tộc tôi.
Sự kiện 30/04/1975 đã xẩy ra khi tôi vừa tròn 40 tuổi. Sau sự kiện này, cũng đã có nhiều ngày buồn khác đến với tôi, song thật sự tôi thấy chưa có một ngày buồn nào mà tôi buồn hơn ngày 30/04/1975. Tuy nhiên đã có một ngày mà tôi không mong đợi nó đến, song nó đã đến với tôi, đó là ngày 05/09/2018, ngày mà nhà tôi vĩnh viễn ra đi. Ngày hôm ấy, tôi cảm thấy buồn lắm, buồn hụt hẫng như đã mất đi một nửa cuộc đời. Nỗi buồn của tôi vào ngày 05/09/2018, không thuần túy là buồn vì đã mất đi người vợ đầu gối, tay ấp trong thời gian hơn 50 năm trời, mà còn buồn vì đã mất đi một người vợ ân tình với hai bàn tay trắng, sau ngày 30/04/1975, đã tần tảo, ngược xuôi nuôi 3 con còn nhỏ dại khôn lớn và nuôi chồng sống sót sau nhiều năm bị tù đày trong các trại tù cải tạo lao động khổ sai của cộng sản.
Nếu nhà tôi không phải là một người phụ nữ can đảm đã hy sinh cả cuộc đời cho chồng, cho con, có lẽ sau tháng Tư năm 1975, các con tôi đã phải sống cầu bơ cầu bất nơi đầu đường xó chợ, và bản thân tôi đã chết mất xác trong một trại tù cải tạo nào đó nằm rải rác trong vùng rừng thiêng nước độc từ miền Nam tới miền Trung.
Khi viết về sự hy sinh khổ cực cho chông cho con của nhà tôi, tôi không thể không nhắc tới một đoạn trong bài thơ có tựa đề là “Cô Gái Việt Nam Ơi” của thi sĩ Hồ Dzếnh, nguyên văn như sau:
Cô gái Việt Nam ơi!
Nếu chữ hy sinh có ở đời
Tôi muốn nạm vàng muôn khổ cực
Cho lòng cô gái Việt Nam tươi
Có lẽ vì sự hy sinh cao thượng của nhà tôi, mà tôi tưởng là nỗi của tôi vào ngày 05/09/2018 lớn hơn nỗi của tôi vào ngày 30/04/1975. Song trong thực tế nó đã không xảy ra như thế, vì ngày mà nhà tôi qua đời thực sự chỉ là ngày buồn to lớn của riêng tôi, các con của tôi và của các anh chị em ruột nhà tôi, mà không phải là nỗi buồn chung của cả một dân tộc trong đó có tôi, các con cháu của tôi, và bà con họ hàng của tôi cũng như của nhà tôi.
Khi ngồi viết lại những dòng tâm sự này, tôi đã có một khối thời gian nặng tới 88 năm đè trên vai gầy. Nên có thể nói là tôi đã gần đất và xa trời lắm lắm rồi. Vì thế tôi tin rằng trong quãng đời còn lại của tôi sẽ không có một ngày khác mà tôi buồn hơn ngày 30/04/1975.
Huy Vũ
Đã xem 123 lần, 2 lần xem hôm nay.
Recent Comments